Bán án về tranh chấp ly hôn số 64/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 64/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 3 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố L Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 807/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 về “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 91/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Số 479, khóm Đông Thịnh 4, phường Mỹ P, thành phố L Xuyên, tỉnh An Giang – Có mặt.

- Bị đơn: Huỳnh Thanh P, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Số 178 đường Nguyễn Trường T, khóm Bình Khánh x, phường Bình K, thành phố L Xuyên, tỉnh An Giang – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 27/10/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh P do tự quen biết, tìm hiểu nhau trước, cả hai đã tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2017 và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Mỹ P, thành phố L Xuyên vào ngày 16/3/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh P thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cải vã, không tin tưởng nhau, đời sống vợ chồng không hạnh P, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh P.

Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Thiên L, sinh ngày 22/5/2019. Hiện cháu L đang sống với chị N, khi ly hôn chị N xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Huỳnh Thanh P vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa, không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh P. Về con chung: Chị N xin được được tiếp tục nuôi dưỡng con chung chưa trưởng thành tên Huỳnh Thiên L, sinh ngày 22/5/2019. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N không có yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết. Bị đơn anh Huỳnh Thanh P vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng đét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa chị N với anh P là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Anh Huỳnh Thanh P có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Bình Khánh, thành phố L Xuyên, tỉnh An Giang nên chị N khởi kiện xin ly hôn với anh P thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L Xuyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Huỳnh Thanh P mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị N với anh P là hôn nhân tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ P, thành phố L Xuyên, tỉnh An Giang ngày 16/3/2017 là phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đây là hôn nhân hợp pháp nên được công nhận. Trong quá trình chung sống, chị N cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường hay cự cãi, bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp nhau và vợ chồng đã sống ly thân, nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh P.

Sau khi xem xét ý kiến của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng chị N, anh P có những mâu thuẫn không thể hàn gắn được, thể hiện qua việc vợ chồng đã sống ly thân, trong thời gian này cả hai chỉ lo cho cuộc sống cá nhân không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh P biết về việc chị N xin ly hôn với anh nhưng anh P không tham dự phiên tòa cũng như trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của chị N, điều này thể chứng tỏ anh P không có ý muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, việc chị N xin ly hôn với anh P là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Thiên L, sinh ngày 22/5/2019. Hiện cháu L đang sống với chị N, khi ly hôn chị N xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, thời gian qua cháu L do chị N trực tiếp nuôi dưỡng vẫn đang sinh sống ổn định và phát triển bình thường về tâm sinh lý; điều này cho thấy chị N có đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung, hơn nữa cháu L, sinh năm 2019 tính đến thời điểm chị N xin ly hôn thì cháu L dưới 36 tháng tuổi. Vì vậy, việc chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là có căn cứ và phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 20214 nên được chấp nhận. Nếu sau này, chị N và anh P có thỏa thuận thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc chị N không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh P được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Anh P là người không trực tiếp nuôi con chung nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì anh P có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị N và các thành viên gia đình chị N không được cản trở anh P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc nuôi con không cố định.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên [4] Về cấp dưỡng: Do chị N không có yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xét đến.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến.

[6] Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị N và anh P được quyền kháng cáo trong theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 8; Điều 9; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh N và anh Huỳnh Thanh P.

[2] Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Thiên L, sinh ngày 22/5/2019.

Giao cháu Huỳnh Thiên L, sinh ngày 22/5/2019 cho chị Nguyễn Thị Thanh N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Huỳnh Thanh P không trực tiếp nuôi con chung nhưng anh P có quyền được thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản anh P thực hiện quyền này. Việc nuôi con không cố định.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Huỳnh Thanh P không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị N không có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chưa giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thanh N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp theo biên lai thu số 0007859 ngày 04/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố L Xuyên. Chị N đã nộp xong án phí.

[6] Về quyền kháng cáo:

Chị Nguyễn Thị Thanh N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Huỳnh Thanh P được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bán án về tranh chấp ly hôn số 64/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;