TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH K
BẢN ÁN 60/2024/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 23 tháng 8 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 106/2024/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2024 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1976 Địa chỉ: Ấp 10 C, xã Đ, huyện A, tỉnh K.
2. Bị đơn: Anh Lý Văn N, sinh năm 1975 Địa chỉ: Ấp 10 C, xã Đ, huyện A, tỉnh K.
(Chị D; anh N có đơn xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, các ý kiến và yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:
Vào năm 1992, chị có chung sống với anh Lý Văn N (không có đăng ký kết hôn). Trong quá trình chung sống luôn phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh N rất ham chơi, quanh năm suốt tháng không biết làm gì mà chỉ muốn hưởng thụ. Khoảng 6 năm nay trong thời gian chị đi làm, ở nhà anh N tham gia cờ bạc, gây ra nợ nần, mẹ con chị phải kiếm tiền trả nợ cho anh N để giữ gìn tài sản cho con. Tuy vậy chị cũng cố gắng chịu đựng và cho anh nhiều cơ hội nhưng anh vẫn không từ bỏ, vì vậy vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Xét thấy hiện nay mâu thuẫn vợ chồng ngày càng phát sinh nhiều thêm không tháo gỡ được nên chị đề nghị ly hôn.
- Về con chung: Có 02 con chung là Lý Văn G, sinh ngày 20/01/1993 và Lý Thị Thúy K, sinh ngày 07/7/2000. Hiện các con đang sống với chị.
- Về tài sản chung: Không có
- Về nợ chung: Không có Nay chị yêu cầu được cắt đứt quan hệ vợ chồng với anh Lý Văn N. Về con chung: Các con đủ trưởng thành tự lao động sinh sống được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.
* Theo biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 01 tháng 8 năm 2024 và các ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Lý Văn N có ý kiến trình bày:
Anh thống nhất với lời trình bày của vợ anh là Nguyễn Thị D về quá trình tiến đến hôn nhân; về con chung, tài sản chung và nợ chung.
Nay D yêu cầu ly hôn với anh, anh đồng ý. Về con chung 02 con chung đã trưởng thành tự lao động, sinh sống được không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Chị D, anh N: Có đơn xin yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng đã chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D và anh Lý Văn N xác định xác lập quan hệ vợ chồng năm 1992, nhưng không có đăng ký kết hôn nên đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận chị Nguyễn Thị D và anh Lý Văn N là vợ chồng. Về con chung: Chị D và anh N xác định có 02 con chung đã trưởng thành tự lao động, sinh sống được không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: Chị D và anh N xác định không có nên không đặt ra xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị D và bị đơn anh Lý Văn N có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh, chị trong vụ án này.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
Chị Nguyễn Thị D và anh Lý Văn N thống nhất trình bày hai anh, chị tiến đến hôn nhân vào năm 1992, không có đăng ký kết hôn. Theo chị D trong quá trình chung sống luôn phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh N rất ham chơi, quanh năm suốt tháng không biết làm gì mà chỉ muốn hưởng thụ. Khoảng 6 năm nay trong thời gian chị đi làm, ở nhà anh N tham gia cờ bạc, gây ra nợ nần, mẹ con chị phải kiếm tiền trả nợ cho anh N để giữ gìn tài sản cho con. Tuy vậy chị cũng cố gắng chịu đựng và cho anh nhiều cơ hội nhưng anh vẫn không từ bỏ, vì vậy vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Phía anh N thống nhất với lời trình bày của chị D và nay chị D yêu cầu ly hôn thì anh N cũng đồng ý. Do anh, chị có đủ điều kiện để đăng ký kết hôn, nhưng không đi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký theo quy định. Nay có tranh chấp xin ly hôn nên trường hợp này pháp luật quy định chị D và anh N không được công nhận là vợ chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Lý Văn N xác định có 02 con chung là Lý Văn G, sinh ngày 20/01/1993 và Lý Thị Thúy K, sinh ngày 07/7/2000; hiện 02 con chung đã trưởng thành tự lao động sinh sống được không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị D và anh N xác định không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Chị D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[6] Xét đề nghị của Vị Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Các Điều 147, 227, 228, 238, 271, 273, 278, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Các Điều 9, 14, 51, 53 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Các Điều 24; 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Xử: 1. Về hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Nguyễn Thị D và anh Lý Văn N là vợ chồng.
2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị D và anh Lý Văn N xác định có 02 con chung là Lý Văn G, sinh ngày 20/01/1993 và Lý Thị Thúy K, sinh ngày 07/7/2000; hiện 02 con chung đã trưởng thành tự lao động sinh sống được không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị D và anh N xác định không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị D đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005010 ngày 11 tháng 6 năm 2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện A nên được cấn trừ xem như chị D đã thi hành xong phần án phí.
5. Chị Nguyễn Thị D, anh Lý Văn N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh K xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 60/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 60/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/08/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về