Bản án về tranh chấp ly hôn số 573/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 573/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09/12/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 395/2021/TLST – HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2021 về việc “tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/11/2021. Giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thế A - Sinh năm 1985; HKTT: Tổ 9, thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội. Có mặt

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị Ánh H - Sinh năm 1985; HKTT: Tổ 9, thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội; Chỗ ở: Thôn D, xã N, huyện Đ, Hà Nội. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 21/9/2021, các lời khai bổ sung, anh Nguyễn Thế A - nguyên đơn trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phạm Thị Ánh H tự do tìm hiểu, tự nguyện và đăng ký kết hôn ngày 01/10/2010 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, Đông Anh, Hà Nội.Sau khi kết hôn chị H về nhà anh chung sống cùng gia đình tại Tổ 9, thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội từ đó đến tháng 3/2021 thì vợ chồng anh xẩy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng căng thẳng, không thể nói chuyện được với nhau. Do vậy, vào khoảng tháng 4/2021 anh đã làm đơn khởi kiện xin ly hôn với chị H nhưng sau đó anh đã rút đơn để vợ chồng đoàn tụ và cho nhau cơ hội. Tuy nhiên, sau đó cuộc sống vợ chồng vẫn không thay đổi và chị H đã mang con về nhà bố mẹ đẻ tại thôn D, xã N, huyện Đ, Hà Nội sinh sống từ khoảng tháng 07/2021 đến nay và vợ chồng cũng không có trách nhiệm hay quan tâm gì đến nhau. Trước đó chị H có gặp anh để nói chuyện về việc vợ chồng đoàn tụ nhưng anh không đồng ý đoàn tụ. Vì anh xác định, anh không còn tình cảm hay yêu thương chị H. Anh không thể tiếp tục chung sống với chị H được nữa. Nay anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị H để ổn định cuộc sống.

- Về con chung: Anh xác định vợ chồng anh có 01 con chung là Nguyễn Hà L, sinh ngày 10/09/2012. Ly hôn, anh nhất trí để chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung với chị H là 10.000.000đ/1 tháng

- Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Chị Phạm Thị Ánh H là bị đơn trình bày:

-Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Thế A tự do tìm hiểu, tự nguyện và đăng ký kết hôn ngày 01/10/2010 tại UBND thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội. Sau khi kết hôn, chị về nhà anh Thế A sinh sống cùng gia đình nhưng đến khoảng tháng 7/2021 do anh Thế A bỏ ra ngoài sinh sống nên chị mang con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống để thuận tiện cho công việc và nhờ ông bà ngoại giúp đỡ chăm sóc con. Từ đó đến nay, anh Thế A không lần nào đến nhà chị gọi chị về vợ chồng đoàn tụ. Chị xác định quá trình chung sống, vợ chồng chị không xẩy ra mâu thuẫn gì, việc vợ chồng chị sống ly thân là để xem xét lại cuộc sống vợ chồng nhưng vợ chồng chị vẫn quan tâm đến nhau chứ không phải như anh Thế A trình bày. Thời gian qua, chị cũng đã trao đổi với anh Thế A để vợ chồng chung sống nuôi dậy con chung nhưng anh Thế A không đồng ý. Chị cũng có biện pháp gọi cho anh Thế A bảo vợ chồng ra ngoài thuê ở riêng để vợ chồng cải thiện nhưng anh Thế A không nghe. Anh Thế A không cho chị biết chỗ ở của mình nên chị không đến gặp anh Thế A được. Đến nay chị không có biện pháp gì khác để cải thiện quan hệ vợ chồng. Anh Thế A cũng đã làm đơn ra Tòa án xin ly hôn chị nhưng chị không đồng ý và sau đó anh Thế A rút đơn xin ly hôn chị. Lý do lần này vì sao anh Thế A lại tiếp tục làm đơn xin ly hôn thì chị không biết. Nay anh Thế A làm đơn khởi kiện xin ly hôn chị, chị không đồng ý vì chị xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn và đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ.

- Về con chung: Chị nhất trí vợ chồng chị có 01 con chung Nguyễn Hà L, sinh ngày 10/09/2012 .Trường hợp nếu phải ly hôn chị đề nghị Tòa án xem xét cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con, nếu phải ly hôn chị nhất trí với mức cấp dưỡng mà anh Thế A nêu ra là 10.000.000đ/tháng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị nhất trí không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại phiên tòa:

+ Anh Thế A vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn chị H; Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Hà L, sinh ngày 10/9/2012. Ly hôn anh Thế A nhất trí để chị H nuôi dưỡng cháu L và anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung với chị H là 10.000.000đ/tháng. Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Chị H trình bày: Chị vẫn giữ nguyên quan điểm không đồng ý ly hôn anh Thế A. Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Hà L, sinh ngày 10/9/2012. Nếu ly hôn chị trực tiếp nuôi dưỡng cháu L và nhất trí với mức cấp dưỡng nuôi con chung với của anh Thế A là 10.000.000đ/tháng. Về tài sản chung: Nếu phải ly hôn, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo trình tự thủ tục pháp luật quy định. Đối với nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án đến phiên toà hôm nay đã chấp hành tốt pháp luật không phải nhắc nhở, kiến nghị gì.

- Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích các tình tiết nội dung của vụ án và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, xét thấy anh Thế A xin ly hôn chị H là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Thế A. Về con chung: Anh chị đều xác định vợ chồng anh chị có 01 con chung là Nguyễn Hà L, sinh ngày 10/9/2012. Ly hôn chị H có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu L, anh Thế A cũng nhất trí. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu L cho chị H nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của anh Thế A là 10.000.000đ/tháng;

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

- Về án phí LHST và cấp dưỡng nuôi con: Anh Thế A phải chịu cả

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

1.1. Anh Nguyễn Thế A và chị Phạm Thị Ánh H kết hôn ngày 01/10/2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Đ, Hà Nội. Anh Thế A xin ly hôn chị Phạm Thị Ánh H. Chị H hiện đang cư trú tại thôn D, xã N, huyện Đ, Hà Nội. Do vậy, xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp về ly hôn theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Thế A và chị H kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng: Theo anh Thế A trình bày thì vợ chồng anh chị thường xuyên mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, sinh hoạt hàng ngày khiến cho cuộc sống vợ chồng căng thẳng. Tháng 4 năm 2021, anh đã làm đơn xin ly hôn chị H tại Tòa án nhân dân huyện Đông Anh nhưng sau đó anh đã rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ. Quá trình chung sống, vợ chồng không thể cải thiện được. Đến tháng 9/2021, vợ chồng tiếp tục mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên anh tiếp tục làm đơn xin ly hôn chị H. Chị H xác định chị không đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Xét thấy: Mâu thuẫn của anh Thế A và chị H là có thật. Anh Thế A đã làm đơn ly hôn chị H tại Tòa án nhưng sau đó anh Thế A rút đơn để vợ chồng đoàn tụ nhưng vợ chồng vẫn không cải thiện được. Vợ chồng đã ly thân một thời gian không ai quan tâm chăm sóc và có trách nhiệm với nhau. Chị H không đồng ý ly hôn nhưng không có biện pháp nào để cải thiện quan hệ vợ chồng. Do đó, nhận thấy anh Thế A, chị H có mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy việc anh Thế A xin ly hôn chị H là có căn cứ và phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Anh Thế A, chị H xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà L, sinh ngày 10/9/2012. Hiện đang ăn ở với chị H. Ly hôn, hai bên đều thống nhất là chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu L. Xét, việc thỏa thuận của anh chị là hoàn toàn tự nguyện nên được ghi nhận. Do đó, giao cháu L cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Thế A cấp dưỡng nuôi con chung với chị H là 10.000.000đ/tháng. Chị H nhất trí với mức cấp dưỡng của Thế Anh. Do đó, xét việc thỏa thuận của hai bên là hoàn toàn tự nguyện nên được Tòa án ghi nhận và buộc anh Thế A cấp dưỡng nuôi con với chị H là 10.000.000đ/tháng, kể từ tháng 12/2021.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Anh Thế A phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 56, 81, 82, 83, 84, Luật Hôn nhân và gia đình.

- Khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 203, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Thế A đối với chị Phạm Thị Ánh H. Anh Nguyễn Thế A được ly hôn chị Phạm Thị Ánh H.

2. Về con chung: Anh Thế A, chị H có 01 con chung là Nguyễn Hà L, sinh ngày 10/9/2012. Giao cháu L cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Thế A cấp dưỡng nuôi con chung với chị H là 10.000.000đ/tháng, kể từ tháng 12/2021 cho đến khi con chung thành niên hoặc có sự thay đổi khác. Anh Thế A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

4.1. Về án phí LHST: 300.000đ anh Thế A phải chịu cả.

4.2. Về án phí cấp dưỡng nuôi con: 300.000đ anh Thế A phải chịu cả.

Tổng cộng tiền án phí là 600.000 đồng, anh Thế A phải chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng, theo biên lai số AA/2020/0045542 ngày 29/9/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh. Anh Thế A phải tiếp tục nộp tiếp 300.000đ để sung Ngân sách Nhà nước.

5. Án xử công khai sơ thẩm. Anh Nguyễn Thế A, chị Phạm Thị Ánh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 573/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:573/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;