Bản án về tranh chấp ly hôn số 547/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 547/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1174/2020/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020 về việc "Tranh chấp ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 117/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1988 (vắng mặt – có yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Địa chỉ: xã BH, huyện BC, Thành phố H.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm: 1988 (vắng mặt); Địa chỉ: xã BH, huyện BC, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà và Ông Nguyễn Văn L bắt đầu sống chung từ năm 2012 do hai người tự tìm hiểu. Hai người có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu hai người chung sống rất hạnh phúc. Đến năm 2016 hai người bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống với nhau. Hai người đã sống ly thân với nhau từ giữa năm 2020 đến nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên bà yêu cầu được ly hôn với Ông Nguyễn Văn L.

Về con chung: Quá trình sống chung, vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Tuệ Ph, giới tính nam, sinh ngày 29/7/2013. Trẻ Ph hiện đang sống chung với bà. Bà yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ Ph và không yêu cầu Ông Nguyễn Văn L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vắng mặt do có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn cố tình vắng mặt tại Tòa án, không thể hiện ý kiến gì.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Thị H yêu cầu được ly hôn với Ông Nguyễn Văn L. Đây là tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo kết quả xác minh của Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh xác định: “Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1988 có tạm trú tại ấp 3A, xã BH, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh” nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về các yêu cầu của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 32, quyển số II/2012 do Ủy ban nhân dân phường ĐS, thành phố PR TC, tỉnh NT cấp ngày 18 tháng 5 năm 2012 thì giữa Bà Nguyễn Thị H và Ông Nguyễn Văn L là vợ chồng được pháp luật công nhận quy định tại Điều 9, Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

Xét theo lời trình bày của Bà Nguyễn Thị H thì đời sống chung vợ chồng giữa Bà H và Ông L phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chia sẻ các vấn đề trong cuộc sống với nhau, hai người không còn thương yêu chăm sóc lẫn nhau. Mặc dù, mâu thuẫn vợ chồng giữa Bà H và Ông L chưa được Ủy ban nhân dân xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xác định cụ thể. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Ông L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng Ông L vẫn vắng mặt không rõ lý do, điều này cho thấy Ông L đã không quan tâm đến tình trạng hôn nhân, không thiết tha trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hơn nữa, Bà H và Ông L cũng đã sống ly thân với nhau. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa Bà H và Ông L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của Bà Nguyễn Thị H là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2]. Về con chung: Bà H và Ông L có 01 (một) con chung tên Nguyễn Tuệ Ph, giới tính nam, sinh ngày 29/7/2013. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu Ông L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét, trẻ Ph đang sống chung với Bà H. Bà H đã chăm sóc, nuôi dưỡng tốt cho trẻ Ph. Hơn nữa, trẻ Ph (đủ 07 tuổi) có nguyện vọng sống chung với Bà H. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của trẻ, Hội đồng xét xử giao trẻ Ph cho Bà H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của Bà H không yêu cầu Ông L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Ông L có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Bà H xác định không có, không yêu cầu Tòa giải quyết còn Ông L vắng mặt không thể hiện ý kiến của ông về tài sản chung, nợ chung giữa ông và Bà H. Vì vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề tài sản chung, nợ chung theo yêu cầu của Bà H và Tòa không đặt ra để giải quyết.

[3]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận;

[4]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, b khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 11 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

- Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà Nguyễn Thị H đối với bị đơn Ông Nguyễn Văn L về việc tranh chấp ly hôn.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với Ông Nguyễn Văn L (Bà H và Ông L đã đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 32 quyển số II/2012 do Ủy ban nhân dân phường ĐS, thành phố PR TC, tỉnh NT cấp ngày 18 tháng 5 năm 2012).

1.2. Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Tuệ Ph, giới tính nam, sinh ngày 29/7/2013 cho Bà Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của Bà H không yêu cầu Ông L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Ông L có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà H xác định không có và không yêu cầu Tòa giải quyết nên Tòa không đặt ra để giải quyết.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2019/0080382 ngày 05 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 547/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:547/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;