Bản án về tranh chấp ly hôn số 54/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 54/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 235/2021/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022, về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXX-ST, ngày 20 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Thị D, sinh năm 1975 ( tự Út Nhỏ)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1977

Cùng địa chỉ: ấp TH, xã TL, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang ( Bà D, ông Đ có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/4/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị bà Thị D trình bày: Vào năm 1997 tôi và anh Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và được UBND xã Thạnh Lộc, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 415/2002, ngày 29/10/2002.

Trong quá trình chung sống tôi và anh Đ có chung với nhau 02 người con chung tên Nguyễn Danh Thái D, sinh năm 1997 sinh năm 2004 hiện đã trưởng thành và Nguyễn Danh Thái D, sinh ngày 09/10/2004 hiện nay sống cùng ông Đ.

Về tài sản chung trong quá trình chung sống tôi và anh Đ cũng có tạo lập được một số tài sản chung nhưng tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết để vợ chồng tự thỏa thuận, về nợ chung thì không có nợ chung.

Lúc đầu, cuộc sống vợ chồng tôi rất hạnh phúc nhưng một thời gian sau thì vợ chồng tôi thường xuyên mâu thuẫn nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, ghen tuông vô cớ, thậm chí anh Đ thường xuyên đánh đập tôi nhiều lần. Chỉ vì con muốn nếu kéo hạnh phúc gia đình nên tôi mới chịu đựng đến ngày hôm nay.

Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc gia đình không còn nên tôi làm đơn ly hôn đến Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang yêu cầu giải quyết:

- Về hôn nhân: Tôi xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

- Về con chung: Tôi và anh Đ có chung với nhau 02 người con tên Nguyễn Danh Thái Dương, sinh năm 1997 hiện đã trưởng thành và Nguyễn Danh Thái Duy, sinh ngày 09/10/2004 hiện nay đang sống cùng ông Đ, tôi đồng ý giao cho ông Đ nuôi dưỡng.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết để vợ chồng tự thỏa thuận.

- Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tại bản tự khai ngày 10/5/2022 và tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Nguyễn Văn Đ trình bày: Vào năm 1997, tôi và chị Thị Diễm có tổ chức lễ cưới, chung sống vợ chồng và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thạnh Lộc, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 415/2002, ngày 29/10/2002. Qua thời gian chung sống, chúng tôi có 02 người con chung tên: Nguyễn Danh Thái Dương, sinh năm 1997 hiện đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết và Nguyễn Danh Thái Duy, sinh ngày 09/10/2004 hiện nay đang sống cùng tôi.

Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng tôi có tạo lập 01 tài sản chung gồm có 01 căn nhà cấp 4 cất trên đất do mẹ vợ cho với đất đã được cấp cho vợ chồng tôi đứng tên chủ sở hữu, hiện nay căn nhà do tôi và con tôi đang ở nhưng tôi xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyên nhân mâu thuẫn, tôi xác nhận trong quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc nhưng đến đầu năm 2021 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tôi đi làm ăn xa, vắng nhà, tôi có thường xuyên gọi điện thoại về nhà thăm gia đình, nhưng chị Diễm không nghe máy và chặn cuộc gọi của tôi, đến khi tôi về nhà thì phát hiện có thái độ lén lúc nghe điện thoại của người khác, sau nhiều lần kiểm tra thì mới phát hiện chị Diễm có quen người đàn ông khác bên ngoài, tôi đã nhiều lần động viên hàn gắn nhưng chị Diễm không đồng ý, tôi xác nhận trong lúc nóng giận tôi có đánh vợ tôi, tôi xác định trong thời gian chung sống tôi có uống rượu là thật hay chửi vợ là thật và thậm chí tôi có đánh vợ tôi là do vợ tôi có người đàn ông khác bên ngoài. Khi tôi nói thì vợ tôi chối sau đó chị Diễm bỏ nhà đi từ 5/4/2022 cho đến nay không có về nhà. Tôi xác nhận mặc dù chị Diễm có nhiều cái sai trong quá trình hôn nhân nhưng tôi chấp nhận tha lỗi để hàn gắn, để chăm lo cho con, không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Diễm.

Nay vợ tôi gởi đơn này đến Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xin ly hôn với tôi thì ý kiến của tôi như sau:

Về hôn nhân: Không đồng ý ly hôn với chị Thị Diễm, tôi muốn tòa cho tôi thời gian và cơ hội để cho vợ tôi suy nghĩ lại để hàn gắn vợ chồng.

Về con chung: Có 02 người con chung tên: Nguyễn Danh Thái Dương, sinh năm 1997 hiện nay đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về con chung tên Nguyễn Danh Thái Duy, sinh ngày 09/10/2004 hiện nay đang sống cùng với ông Đ, do đó HĐXX xét giao cho ông Đ tiếp tục nuôi dưỡng, ông Đ không yêu cầu bà Diễm cấp dưỡng nên HĐXX không xem xét.

Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cho đến khi Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử thì ông Nguyễn Văn Đ mới có yêu cầu chia tài sản chung, do đó căn cứ vào khoản 3 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án không chấp nhận yêu cầu của ông Đ.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn bà Thị D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghị án, Toà án nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Thị D yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, do đó đây là quan hệ “ Tranh chấp ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS năm 2015. Đồng thời, bị đơn ông Nguyễn Văn Đ có địa chỉ cư trú tại ấp Thạnh Hưng, xã Thạnh Lộc, huyện Châu Thành, Kiên Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS năm 2015.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của bà Thị D yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn Đ, Hội đồng xét xử xét thấy rằng bà Diễm và ông Đ xác định anh chị xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 29/10/2002 và được UBND xã Thạnh Lộc, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 415/2002 theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà Diễm, ông Đ đều xác nhận anh chị sống hạnh phúc với nhau được một thời gian dài, sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cải vả với nhau. Theo bà Diễm nguyên nhân mâu thuẫn là do ông Đ thường xuyên ghen tuông vô cớ và thậm chí đánh bà nhiều lần, về phía ông Đ cũng thừa nhận là bà Diễm có người đàn ông khác bên ngoài, trong lúc nóng giận không kiềm chế được bản thân nên ông có đập điện thoại bà Diễm và có đánh vợ vài lần.

HĐXX nhận định việc bà Diễm yêu cầu ly hôn với ông Đ là có căn cứ vì trên thực tế mâu thuẫn giữa vợ chồng bà Diễm, ông Đ xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, mặc dù Tòa án đã tiến hành hòa giải, động viên nhiều lần để ông Đ và bà Diễm hàn gắn đoàn tụ nhưng bà Diễm vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng bà Diễm không còn tự nguyện sống chung với ông Đ nữa, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Diễm yêu cầu ly hôn với ông Đ là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 2, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Bà Diễm và ông Đ đều xác định trong quá trình chung sống vợ chồng ông bà có 02 người con chung tên: Nguyễn Danh Thái Dương, sinh năm 1997 hiện nay đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về con chung tên Nguyễn Danh Thái Duy, sinh ngày 09/10/2004 hiện nay đang sống cùng với ông Đ, do đó HĐXX xét giao cho ông Đ tiếp tục nuôi dưỡng, ông Đ không yêu cầu bà Diễm cấp dưỡng nên HĐXX không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Bà Thị D xác định trong thời gian chung sống có tạo lập được một số tài sản chung nhưng bà Diễm xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết để vợ chồng tự thỏa thuận. Về phí ông Đ trình bày trong thời gian chung sống vợ chồng có tạo được 01 căn nhà cấp 4 cất trên đất do mẹ vợ cho với đất đã được cấp cho vợ chồng ông đứng tên, hiện nay căn nhà do ông và con ông đang ở nhưng trong quá trình giải quyết vụ án ông Đ xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, cho đến khi Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử nên ông Đ mới có yêu cầu được chia tài sản chung nên căn cứ vào khoản 3 Điều 200 Bộ luật dân sự yêu cầu của ông Đ không có cơ sở để HĐXX xem xét. Nếu ông Đ cho rằng yêu cầu của mình có cơ sở, có căn cứ thì ông Đ có thể khởi kiện thành vụ án khác theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[5] Về nợ chung: Bà Thị D và ông Nguyễn Văn Đ xác định không có nên HĐXX không xem xét.

[6] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật như đã phân tích nêu trên, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[7] Về án phí: Buộc bà Diễm phải chịu 300.000 đồng, nhưng bà Diễm được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0009302, ngày 19/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Bà Diễm không phải nộp thêm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 3 Điều 200, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Khoản 1 Điều 2 Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thị D về việc “ Tranh chấp ly hôn” với ông Nguyễn Văn Đ.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Thị D được ly hôn với ông Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Có 02 người con chung tên Nguyễn Danh Thái Dương, sinh năm 1997 hiện nay đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Giao người con chung tên Nguyễn Danh Thái Duy, sinh ngày 09/10/2004 cho ông Đ tiếp tục nuôi dưỡng, ông Đ không yêu cầu bà Diễm cấp dưỡng nên HĐXX không xem xét. Bà Thị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom các con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Bà Thị D và ông Nguyễn Văn Đ xác định có tạo lập được một số tài sản chung. Bà Diễm xác định để vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án xem xét. Trong quá trình giải quyết vụ án cho đến khi Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử ông Nguyễn Văn Đ mới có yêu cầu nên căn cứ vào khoản 3 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự nên HĐXX không có cơ sở để xem xét. Nếu ông Đ cho rằng yêu cầu của minh có cơ sở, có căn cứ thì ông Đ có thể khởi kiện thành vụ án khác theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

4. Về nợ chung: Bà Thị D và ông Nguyễn Văn Đ xác định không có nên HĐXX không xem xét.

5. Về án phí: Buộc bà Diễm phải chịu 300.000 đồng, nhưng bà Diễm được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0009302, ngày 19/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Bà Diễm không phải nộp thêm.

6. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

7. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 54/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:54/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;