Bản án về tranh chấp ly hôn số 52/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 52/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 407/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2021, về tranh chấp“Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/4/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Ngọc L, sinh năm: 1984; Địa chỉ: 236/5 N, phường T, thành phố T, Phú Yên.

2. Bị đơn: Ông Lê Hữu T, sinh năm: 1984;

Địa chỉ: 236/5 N, phường T, thành phố T, Phú Yên.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi (L) và ông Lê Hữu T tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thành phố T vào năm 2007.

Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy mâu thuẫn về vấn đề tiền bạc.

Cách đây 08 năm đã gửi đơn ly hôn đến Tòa 01 lần nhưng sau đó suy nghĩ lại nên đã rút đơn. Nhưng từ đó đến nay, ông T vẫn không thay đổi, không lo làm ăn, gây nợ nần. Vợ chồng đã không còn chung sống từ tháng 6/2020 đến nay, không còn ai quan tâm đến ai. Nay thấy tình cảm không còn, không thể tiếp tục chung sống được nữa, nên làm đơn này xin được ly hôn với ông T.

- Về con chung: có 02 con chung là Lê Hoàng Gia H, sinh ngày 04/5/2008 và Lê Hoàng K, sinh ngày 04/5/2013, trong đó cháu K bị bệnh Down bẩm sinh. Hiện 02 con đang sống cùng với ông Lê Hữu T. Ly hôn tôi xin được nuôi cháu Lê Hoàng K, còn cháu Lê Hoàng Gia H thì đề nghị Tòa xem xét nguyện vọng của con. Nếu cháu H muốn ở với tôi thì tôi xin nuôi, tôi không yêu cầu cấp dưỡng; còn nếu cháu muốn ở với cha thì tôi cũng đồng ý, giao cháu cho ông T nuôi.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp L nhiều lần nhưng vắng mặt nên không có lời khai và không T hành hòa giải được.

* Tại phiên tòa: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, xin được ly hôn với bị đơn. Về con chung, xin nuôi con chung là cháu Lê Hoàng K, còn cháu Lê Hoàng Gia H thì đề nghị Tòa xem xét nguyện vọng của con. Về tài sản chung, không yêu cầu giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật; bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, nguyên đơn được ly hôn bị đơn. Về con chung: giao cháu Lê Hoàng K cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Lê Hoàng Gia H cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: không xem xét. Về án phí: nguyên đơn phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Lê Hữu T đã được triệu tập hợp L đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc L và bị đơn ông Lê Hữu T tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thành phố T vào năm 2007, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy mâu thuẫn như đương sự trình bày. Vợ chồng đã không còn sống chung với nhau từ tháng 6/2020 cho đến nay, không còn ai quan tâm đến ai, là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ vợ chồng. Bị đơn ông Lê Hữu T đã được triệu tập hợp L nhiều lần nhưng không đến Tòa để giải quyết là bỏ mặc, không muốn hàn gắn cuộc sống hôn nhân. Xét thấy, mâu thuẫn của vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn được ly hôn với bị đơn.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là Lê Hoàng Gia H, sinh ngày 04/5/2008 và Lê Hoàng K, sinh ngày 04/5/2013, trong đó cháu K bị bệnh Down bẩm sinh. Hiện 02 cháu đang sống cùng với bị đơn. Ly hôn nguyên đơn xin được nuôi cháu Lê Hoàng K, còn cháu Lê Hoàng Gia H thì đề nghị Tòa xem xét nguyện vọng của con. Xét thấy: Bị đơn không đến Tòa nên các bên không thỏa thuận được về người trực tiếp nuôi con; do đó HĐXX quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ về quyền lợi mọi mặt của con. Cháu Lê Hoàng K hiện đang sống cùng cha nhưng bị bệnh Down bẩm sinh, ông T không đến Tòa trình bày ý kiến nên xét việc bà L xin nuôi cháu K là phù hợp và đảm bảo quyền lợi của con nên chấp nhận. Còn cháu Lê Hoàng Gia H đã 13 tuổi, có nguyện vọng xin ở với cha nên giao cháu H cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng là có căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Các bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 107 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Thị Ngọc L được ly hôn ông Lê Hữu T.

- Về con chung: Giao con chung tên là Lê Hoàng Gia H, sinh ngày 04/5/2008 (hiện đang sống cùng bị đơn) cho bị đơn ông Lê Hữu T trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung là Lê Hoàng K, sinh ngày 04/5/2013 (hiện đang sống cùng bị đơn) cho nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc L trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung: Không xem xét.

Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nguyên đơn bà Đặng Thị Ngọc L phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu số 0004914 ngày 23/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 52/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;