Bản án về tranh chấp ly hôn số 52/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HOÀ, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 52/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07/6/2021, Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 13/2021/HNGĐ ngày 14/01/2021 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/5/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/5/2021 giữa:

- Nguyên đơn: Trần Thị Mỹ M – Sinh năm: 1997 Địa chỉ: Thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Châu Thế L − Sinh năm: 1994 Địa chỉ: Thôn M, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ M trình bày:

Tôi và ông Châu Thế L kết hôn năm 2017 tại UBND xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Trong thời gian chung sống với nhau, giữa tôi và ông L xảy ra nhiều mâu thuẫn, do tính tình không hòa hợp, vợ chồng thường xuyên kình cãi, ông L thường xuyên đánh đập, xúc phạm danh dự, chỉ lo cho bản thân, không chăm lo cuộc sống gia đình khiến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Dù tôi đã nhiều lần hàn gắn và khuyên nhủ nhưng vẫn không được. Nay cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn, tình cảm của tôi dành cho ông L không còn nên tôi yêu cầu được ly hôn với ông L. Về con chung: Tôi và ông Lâm có 01 con chung là Châu Hoàng P – sinh ngày: 03/5/2018, tôi đồng ý giao con cho ông Châu Thế L được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và tôi không phụ cấp nuôi con chung. Về tài sản chung: chúng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có.

* Bị đơn ông Châu Thế L mặc dù đã được tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vẫn cố tình vắng mặt nên không có lời khai trong vụ án.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì. Tại phiên tòa, ông Châu Thế L đã được tòa tống đạt, hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn và cho bà Trần Thị Mỹ M được ly hôn ông Châu Thế L.

+ Về con chung: Giao con chung là Châu Hoàng P – sinh ngày: 03/5/2018 cho giao con cho ông Châu Thế L trực tiếp nuôi dưỡng và bà M không cấp dưỡng nuôi con chung.

+ Về tài sản chung: Bà M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

+ Về án phí: bà Trần Thị Mỹ M phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về phần thủ tục tố tụng: Ông Châu Thế L là bị đơn trong vụ án, Tòa án đã tiến hành tống các văn bản tố tụng cho ông Lâm nhưng ông L vẫn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, vì vậy HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông L theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Mỹ M và ông Châu Thế L tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 60 ngày 17/10/2017, do vậy đây là hôn nhân hợp pháp. Qua các tài liệu có trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống chung của vợ chồng bà M, ông L xảy ra nhiều mâu thuẫn, ông L thường xuyên đánh đập, xúc phạm danh dự, chỉ lo cho bản thân, không chăm lo cuộc sống gia đình khiến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và bà M đã nhiều lần hàn gắn nhưng không được. Mặc khác, Tòa án đã tiến hành tống đạt các quyết định nhiều lần nhưng ông L vẫn không đến tham gia phiên tòa, chứng tỏ ông L không muốn hàn gắn tình cảm gia đình. Như vậy, có đủ căn cứ xác định vợ chồng không còn tin tưởng, yêu thương nhau, chăm sóc lẫn nhau, do vậy yêu cầu xin ly hôn của bà M là có cơ sở để chấp nhận.

[3] Về con chung: Tại phiên tòa, bà M đồng ý giao cháu Châu Hoàng P – sinh ngày: 03/5/2018 cho ông Châu Thế L được trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, đây là sự tự nguyện của bà M nên chấp nhận giao cháu Châu Hoàng P – sinh ngày: 03/5/2018 cho ông Châu Thế L được trực tiếp nuôi dưỡng là yêu cầu phù hợp nên chấp nhận. Bà M không phụ cấp nuôi con chung, bà Trần Thị Mỹ M được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung: Bà M không yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về án phí: Bà M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ M.

1. Về hôn nhân: Cho bà Trần Thị Mỹ M được ly hôn ông Châu Thế L.

2. Về con chung: Giao cháu Châu Hoàng P – sinh ngày: 03/5/2018 cho ông Châu Thế L trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Bà M không cấp dưỡng nuôi con chung. Bà Trần Thị Mỹ M được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết cha, mẹ có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: Bà Trần Thị Mỹ M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí: Bà Trần Thị Mỹ M phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0004764 ngày 12 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Bà M đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 52/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;