Bản án về tranh chấp ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 02 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 22/2022/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Trương Thị H, sinh năm 1978, (xin vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: 328A/12/1 Khu vực 1, thị trấn Đ , huyện Đ, tỉnh Long An.

Bị đơn: Trần Văn M, sinh năm 1976, (xin vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: 328A/12/1 Khu vực 1, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 11 tháng 01 năm 2022 nguyên đơn bà Trương Thị H trình bày:

Bà và ông Trần Văn M đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ ngày 18/12/2002. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống tương đối hạnh phúc. Tuy nhiên về sau trong công việc và cuộc sống hằng ngày, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân được nữa nên bà xin ly hôn với ông M inh.

Về con chung: Bà và ông M có con chung tên Trần Văn S, sinh năm 1999 và Trần Văn T, sinh năm 2005. Khi ly hôn, bà yêu cầu nuôi chung tên T, không yêu cầu ông M cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 16 tháng 02 năm 2022, bị đơn ông M trình bày:

Vợ chồng cưới nhau năm 2002, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ. Về tình cảm tôi đồng ý ly hôn.

Về con chung: Có hai con Trần Văn S, sinh năm 1999 và Trần Văn T, sinh năm 2005, hiện đang ở với cha. Khi ly hôn con sống với ai thì người đó nuôi.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Bà H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông M, hiện đang sinh sống tại huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà H, bị đơn ông M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết. Bà H có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên đưa vụ án ra xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà H, ông M chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ ngày 18/12/2002 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, bà H cho rằng thời gian đầu, vợ chồng chung sống tương đối hạnh phúc. Tuy nhiên về sau trong công việc và cuộc sống hằng ngày, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân được nữa nên bà xin ly hôn với ông M inh. Ông M đồng ý ly hôn. Tại phiên tòa hôm nay, ông M và bà H đều xin vắng mặt, chứng tỏ ông bà không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó xét yêu cầu xin ly hôn của bà H đối với ông M là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà H và ông M có con chung tên Trần Văn S, sinh năm 1999 và Trần Văn T, sinh năm 2005. Khi ly hôn, bà H yêu cầu nuôi chung tên T, không yêu cầu ông M cấp dưỡng. Ông M cho rằng con sống với ai thì người đó nuôi. Xét thấy, con chung tên Trần Văn S, sinh năm 1999, đã trưởng thành. Con chung tên Trần Văn T, sinh ngày 02/01/2005 có nguyện vọng sống với mẹ, ba qua lại không theo ai, để đảm bảo sự phát triển bình thường nên buộc ông M có trách nhiệm giao con chung tên Trần Văn T cho bà H nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về tài sản chung: Bà H và ông M trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Bà H và ông M đều xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bà H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị H đối với ông Trần Văn M về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị H được ly hôn với ông Trần Văn M.

2. Về con chung: Buộc ông M có trách nhiệm giao con chung tên Trần Văn T, sinh ngày 02/01/2005 cho bà H nuôi dưỡng. Ông M không phải cấp dưỡng nuôi con, do bà H không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0009484 ngày 11/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành. Bà H đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;