Bản án về tranh chấp ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại phòng xét xử trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 428/2021/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2021 về việc: Tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXX-ST ngày 29 tháng 12 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12/01/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1982.

Đăng ký HKTT và cư trú: Xóm C, thôn L, xã B, huyện M, thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1980.

Đăng ký HKTT: Tổ 3, phường L, quận H, thành phố Hà Nội.

Hiện cư trú tại: N0 04 – LK 115, ngách 2, ngõ 8 đường L, tổ dân phố 1, phường L, quận H, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15 tháng 04 năm 2021 và bản tự khai ngày 26 tháng 10 năm 2021 cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn anh Nguyễn Đức T trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Hồng H chung sống với nhau từ năm 2009 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội chứng nhận kết hôn ngày 23 tháng 4 năm 2009. Quá trình chung sống ngay từ thời gian đầu vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau. Mâu thuẫn trên của anh và chị H đã được gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn nên anh và chị H đã sống ly thân nhau từ tháng 7 năm 2015 cho đến nay.

Nay anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H.

Về con chung: Anh T xác nhận anh và chị H có 02 con chung là Nguyễn Đức A (nam), sinh ngày 11/01/2010 và Nguyễn Đức D (nam), sinh ngày 05/3/2013, hiện nay hai cháu đang sống cùng chị H. Ly hôn anh T đồng ý để chị H là người trực tiếp nuôi 02 con chung là Nguyễn Đức A và Nguyễn Đức D theo nguyện vọng của hai con chung và anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hàng tháng cho mỗi cháu là 1.500.000 đồng, tổng cộng là 3.000.000 đồng. Hiện nay anh T làm nghề tự do thu nhập bình một tháng của anh là 8.000.000 đồng.

Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Anh T xác nhận vợ chồng không có tài sản gì chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Anh T xác nhận không vay nợ ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh T đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng của Tòa án cho chị H, nhưng chị H không đến Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Do chị H không đến Tòa nên Tòa án không tiến hành lấy được lời khai của chị H cũng như không hòa giải cho anh, chị đoàn tụ được.

Tại phiên tòa sơ thẩm anh T giữ nguyên các yêu cầu nêu trên và không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề gì khác.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án ngày hôm nay Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành tố tụng theo đúng các trình tự thủ tục mà bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Sau khi phát biểu đánh giá các tình tiết của vụ án. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh T đối với chị H. Về con chung: Xác nhận anh T và chị H có 02 con chung là Nguyễn Đức A (nam), sinh ngày 11/01/2010 và Nguyễn Đức D (nam), sinh ngày 05/3/2013, giao cho chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Đức A và Nguyễn Đức D. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T cấp dưỡng nuôi con hàng tháng cho mỗi cháu là 1.500.000 đồng, tổng cộng là 3.000.000 đồng. Về tài sản chung, công nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét Về án phí: Anh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng: Quá trình Tòa án tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án triệu tập chị H đến Tòa để giải quyết vụ án, nhưng chị H không đến Tòa. Tại phiên tòa hôm nay chị H đã được Tòa án tống đạt quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham phiên tòa, thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng tại phiên tòa nhưng chị H vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 207 và khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành giải quyết và xét xử vụ án vắng mặt chị H.

Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, bị đơn là chị Nguyễn Thị Hồng H. Chị H có nơi cư trú tại: N0 04 – LK 115, ngách 2, ngõ 8 đường L, tổ dân phố 1, phường L, quận H, thành phố Hà Nội. Nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân quận Hà Đông thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Về nội dung:

[1].Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Hồng H xây dựng gia đình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội chứng nhận kết hôn ngày 23 tháng 4 năm 2009. Hôn nhân của anh T và chị H là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ vào lời khai của anh T và ý kiến của đại diện tổ dân phố 1, phường La Khê, quận Hà Đông đủ cơ sở xác định hiện nay anh T và chị H không chung sống cùng nhau, hơn nữa trong quá trình giải quyết vụ án chị H đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng chị H không đến Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Vì vậy Tòa án không thể tiến hành hòa giải cho anh T, chị H đoàn tụ được. Việc chị H không đến Tòa án để tham gia hòa giải thể hiện chị H không có mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, vì vậy việc anh T xin ly hôn chị H là có căn cứ chấp nhận và phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2]. Về con chung: Anh T xác nhận anh và chị H có 02 con chung là Nguyễn Đức A (nam), sinh ngày 11/01/2010 và Nguyễn Đức D (nam), sinh ngày 05/3/2013, hiện nay hai cháu đang sống cùng chị H. Ly hôn anh T đồng ý để chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung theo ý kiến nguyện vọng của hai con và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hàng tháng cho mỗi cháu là 1.500.000 đồng, tổng cộng là 3.000.000 đồng . Xét yêu cầu của anh T Hội đồng xét xử thấy: Tại đơn đề nghị của cháu Nguyễn Đức A, Nguyễn Đức D thì cháu Đức A và cháu D có nguyện vọng được ở với chị H khi bố mẹ ly hôn và hiện tại hai cháu cũng đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Nên căn cứ vào Điều 81 luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của anh T để chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc 02 con chung. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng cho mỗi cháu là 1.500.000 đồng, tổng cộng 3.000.000 đồng.

[3]. Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Anh T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này chị H chứng minh vợ chồng có tài sản chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

[4]. Về nợ: Anh T xác nhận vợ chồng không vay nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này chị H chứng minh vợ chồng có vay nợ chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

[5]. Về án phí: Anh T phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sư thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông phát biểu và đề xuất hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Từ nhận định trên!

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình, Luật số 52/2014/QH13 ngày 19/6/2014.

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 146; 147; Điều 207; khoản 2 Điều 227; các Điều 271; 273; 278; 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Đức T đối với chị Nguyễn Thị Hồng H.

Anh Nguyễn Đức T được ly hôn chị Nguyễn Thị Hồng H.

2.Về con chung: Xác nhận anh Nguyễn Đức T và chị Nguyễn Thị Hồng H có 02 con chung là Nguyễn Đức A (nam), sinh ngày 11/01/2010 và Nguyễn Đức D (nam), sinh ngày 05/3/2013. Giao cho chị H là người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Đức A và Nguyễn Đức D. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T cấp dưỡng nuôi con hàng tháng cho mỗi cháu là 1.500.000 đồng, tổng cộng là 3.000.000 đồng. Việc cấp dưỡng nuôi con được thực hiện kể từ tháng 02 năm 2022 cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác thay thế.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung (gồm động sản và bất động sản): Anh T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này chị H chứng minh vợ chồng có tài sản chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

4. Về nợ: Anh T xác nhận vợ chồng không vay nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này chị H chứng minh vợ chồng có vay nợ chung và có yêu cầu giải quyết thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.

5. Về án phí: Anh Nguyễn Đức T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Anh T đã nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0009298 ngày 16/7/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông. Anh T còn phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt anh T, vắng mặt chị H. Anh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:50/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;