TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HOÀ, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 16/5/2022, Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 657/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2021, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/3/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05/4/2022 và Thông báo về việc thay đổi ngày xét xử giữa:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Xuân H1 – sinh năm: 1992 Nơi cư trú: Tổ dân phố P, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị đơn: Ông Phạm Thành H2 - sinh năm: 1991 Nơi cư trú: Tổ dân phố P, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày: Bà và ông Phạm Thành H2 chung sống có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Uỷ ban nhân dân Phường N đã cấp giấy chứng nhận kết hôn số 93, quyển số 01/2012.
Qúa trình chung sống giữa bà và ông H2 thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Ông H2 có hành vi đánh đập, rượu chè không chăm lo cho gia đình. Ông H2 có quan hệ bất chính với người đàn bà khác. Bà và ông H2 không còn chung sống với nhau. Hiện, bà không còn tình cảm với ông H2, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với ông Phạm Thành H2.
Về con chung: Bà và ông Phạm Thành H2 có 01 con chung tên Phạm Thanh H3, sinh ngày: 15/12/2013. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng bà ly hôn. Bà đề nghị Tòa án cháu H3 cho bà trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Bà không yêu cầu ông H2 phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Đối với bị đơn ông Phạm Thành H2, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn để lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông H2 không có mặt để làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án nên Tòa án không trực tiếp lấy được lời khai của ông H2 và không tiến hành hòa giải được vụ án.
* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nên Viện kiểm sát không có yêu cầu kiến nghị gì.
Tại phiên tòa, ông Phạm Thành H2 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điều 227, 228 là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án:
+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Xuân H1 cho bà Phạm Thị Xuân Hạnh được ly hôn với ông Phạm Thành H2.
+ Về con chung: Bà và ông H2 có 01 con chung tên Phạm Thanh H3, sinh ngày: 15/12/2013. Xét thấy, bà H1 có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông H2 phải cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu H3 hiện đang ở với bà H1. Do đó, đề nghị HĐXX giao con cháu H3 cho bà H1 trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Bà H1 không yêu cầu ông H2 phải cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị HĐXX không xem xét.
+ Về tài sản chung, nợ chung: Bà H1 không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét.
+ Về án phí: Bà H1 phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà H1 yêu cầu ly hôn với ông Hải. Xác định đây là tranh chấp về quan hệ hôn nhân gia đình về ly hôn, con chung vì vậy theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm.
[2] Về thủ tục: Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật nhưng ông Phạm Thành H2 vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn ông Phạm Thành H2.
Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Xuân H1 vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
[3] Về nội dung vụ án:
3.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà H1 và ông H2 tự nguyện kết hôn và được Uỷ ban nhân dân phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 93, quyển số 01/2012 nên xác định đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Qúa trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Ông H2 có hành vi đánh đập, rượu chè, không chăm lo cho gia đình. Tại biên bản xác minh ngày 10/01/2022, đại diện tổ dân phố P, phường N xác nhận hiện nay bà H1 và ông H2 không còn sống chung với nhau. Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần để ông H2 trình bày ý kiến nhưng ông H2 không đến Tòa án để làm việc. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận ông H2 không muốn hàn gắn hôn nhân với bà H1.
Xét thấy giữa bà H1 và ông H2 đã không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, mâu thuẫn trong hôn nhân đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H1 yêu cầu ly hôn với ông H2 là có căn cứ và phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
3.2. Về con chung: Bà và ông H2 có 01 con chung tên Phạm Thanh H3, sinh ngày: 15/12/2013. Bà H1 có nguyện vọng trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu H3 đến tuổi trưởng thành. Bà không yêu cầu ông H2 phải cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu H3 đang sinh sống cùng mẹ, trong quá trình giải quyết vụ án, cháu H3 cũng có nguyện vọng được ở với mẹ nên Hội đồng xét xử xét thấy cháu H3 còn nhỏ cần được nuôi dưỡng, chăm sóc chu đáo, toàn diện và ổn định để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho cháu. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H1 được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H3. Bà H1 không yêu cầu ông H2 phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông H2 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con khi cần thiết cha, mẹ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.
3.3. Về tài sản chung: Bà H1 không yêu cầu nên không xem xét.
[4] Về án phí: Bà H1 phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[1]. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Xuân H1
1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Xuân H1 được ly hôn với ông Phạm Thành H2.
1.2. Về con chung: Giao con chung tên Phạm Thanh H3, sinh ngày:
15/12/2013 cho bà Nguyễn Thị Xuân H1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà Nguyễn Thị Xuân H1 không yêu cầu ông Phạm Thành H2 phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Phạm Thành H2 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con khi cần thiết cha, mẹ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.
1.3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Xuân H1 không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
[2]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Xuân H1 phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0004346 ngày 21/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Bà Nguyễn Thị Xuân H1 đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
[3]. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 48/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về