Bản án về tranh chấp ly hôn số 48/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 48/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 100/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXX-ST ngày 27 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị V - Sinh năm 1986 - Địa chỉ: Ấp 1, xã M, huyện Đ, tỉnh L. (Vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Hồ Văn T - Sinh năm 1983 - Địa chỉ: Ấp 1, xã M, huyện Đ, tỉnh L. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07/6/2021, các văn bản tiếp theo, nguyên đơn bà Trần Thị V trình bày: Bà và ông Hồ Văn T cưới nhau vào năm 2003 và có đăng ký kết hôn ngày 04/10/2004 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ, tỉnh L. Vợ chồng sống chung hạnh phúc đến năm 2019 thì thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau, nhất là vấn đề quản lý, sử dụng tiền bạc không rõ ràng nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Bà và ông T ly thân từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay.

Về hôn nhân: Bà yêu cầu ly hôn với ông Hồ Văn T.

Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên Hồ Quốc B, sinh ngày 04/5/2005 và Hồ Hải Đ, sinh ngày 05/12/2008, hiện con chung đang sống với bà V. Khi ly hôn, bà V yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về chia tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyên đơn bà Trần Thị V vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Hồ Văn T vắng mặt tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Bà Trần Thị V khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Hồ Văn T có hộ khẩu thường trú và hiện đang cư trú tại ấp 1, xã M, huyện Đ, tỉnh L, Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng: Ông Hồ Văn T được tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng của Tòa án như: Thông báo thụ lý vụ án số 100/TB-TLVA ngày 22/6/2021, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải số 93/TB-TA ngày 22/6/2021 nhưng ông T không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của ông, không có mặt để tham gia phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét đơn khởi kiện của bà V theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông T không được quyền khiếu nại về việc cung cấp chứng cứ, tham gia phiên hòa giải, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên tòa vì ông đã không có mặt theo thông báo và giấy triệu tập của Tòa án, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông theo quy định pháp luật.

Nguyên đơn bà Trần Thị V vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Hồ Văn T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nên Hội đồng xét xử căn cứ vào chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xét đơn khởi kiện của bà V theo khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung: Bà V và ông T chung sống có đăng ký kết hôn ngày 04/10/2004 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ, tỉnh L. Quan hệ hôn nhân giữa bà V và ông T là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình.

[3.1] Xét yêu cầu ly hôn của bà V, Hội đồng xét xử nhận định: Bà V và ông T đều không cung cấp chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình về nguyên nhân mâu thuẫn, tuy nhiên xét vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mâu thuẫn trong quản lý kinh tế gia đình nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Mâu thuẫn giữa bà V và ông T đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tự mỗi người lo cho 2 bản thân, quan hệ vợ chồng chấm dứt từ khi ly thân từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay. Do đó, việc bà V yêu cầu ly hôn là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.2] Về nuôi con chung: Xét bà V và ông T có 02 con chung tên Hồ Quốc B, sinh ngày 04/7/2005 và Hồ Hải Đ, sinh ngày 05/12/2008, hiện con chung đang sống với bà V. Khi ly hôn, bà V yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Xét thấy, hiện cháu B và cháu Đ đang sống chung bà V và do bà V trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi ly thân cho đến nay, hai con chung có nguyện vọng sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Nhằm tránh sự thay đổi tâm lý đối với sự phát triển của con chung nên việc giao hai con chung Hồ Quốc B và Hồ Hải Đ cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.3] Xét việc bà V không yêu cầu ông Thương cấp dưỡng nuôi con chung như đơn khởi kiện ngày 07/6/2021 (theo bản tự khai ngày 30/7/2021) là tự nguyện và phù hợp quy định tại các Điều 82, 107, 110, 116 và 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.4] Về chia tài sản chung và nợ chung: Bà V trình bày không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp, sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, xét thấy: Bà V là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp. Ông T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, các Điều 51, 56, 81, 82, 107, 110, 116 và 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Trần Thị V về việc yêu cầu ly hôn với ông Hồ Văn T.

1. Về hôn nhân: Bà Trần Thị V được ly hôn với ông Hồ Văn T.

2. Về nuôi con chung: Giao hai con chung Hồ Quốc B, sinh ngày 04/7/2005 và Hồ Hải Đ, sinh ngày 05/12/2008, hiện con chung đang sống với bà V cho bà Trần Thị V trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Hồ Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

3 Ông T được quyền thăm nom và chăm sóc con chung. Khi cần thiết vì lợi ích con chung, bà V và ông T có quyền yêu cầu thay đổi tình trạng nuôi con và yêu cầu thay đổi khoản cấp dưỡng nuôi con theo luật hôn nhân và gia đình.

3. Về chia tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn, khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp (theo biên lai thu số 0009224 ngày 22/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Huệ). Bà V đã nộp đủ tiền án phí.

5. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 48/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;