Bản án về tranh chấp ly hôn số 44/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 44/2024/HNGĐ-ST NGÀY 06/11/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 06 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân (TAND) huyện Tuy An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 114/2024/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2024, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/10/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2024/QĐ-ST ngày 21/10/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1989; ĐKTT: Khu phố T, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên. Chỗ ở hiện nay: Khu phố L, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phan Tấn T, sinh năm 1987. Nơi cư trú: Khu phố T, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có tại hồ sơ và tại đơn xin xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Phan Tấn T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 14/01/2015 tại Ủy ban nhân dân (UBND) thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian, đến khoảng tháng 6 năm 2023 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T không quan tâm gì đến vợ con và gia đình, vợ chồng không có tiếng nói chung. Chị H đã từng nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhưng sau đó rút đơn để vợ chồng hàn gắn cùng nhau chăm sóc con cái. Tuy nhiên, sau khi chị H rút đơn thì cuộc sống chung của vợ chồng vẫn không hạnh phúc, không tìm được tiếng nói chung, không thể hàn gắn tình cảm. Chị H và anh T đã sống ly thân từ tháng 6/2023 đến nay. Từ khi sống ly thân đến nay, cả hai không tìm được biện pháp khắc phục mâu thuẫn, cũng không ai quan tâm đến đời sống của ai. Nay xét thấy tình cảm không còn, không thể tiếp tục sống chung với anh T được nữa nên chị H yêu cầu Tòa án cho ly hôn với anh T.

Về con chung: vợ chồng có 01 con chung tên Phan Nguyễn Quỳnh A, sinh ngày 08/8/2015; Hiện cháu Quỳnh A do chị H đang trực tiếp nuôi dưỡng. Nay ly hôn chị H có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Quỳnh A; chị H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Phan Tấn T đã được TAND huyện Tuy An triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên không có lời trình bày và Tòa án không tiến hành hòa giải được.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký đều thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Nguyên đơn có đơn xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt không có lý do nên đề nghị HĐXX căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H. Về hôn nhân: chị H được ly hôn với anh T; Về con chung: Giao cháu Phan Nguyễn Quỳnh A, sinh ngày 08/8/2015 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên đề nghị HĐXX không xem xét 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị H khởi kiện anh Phan Tấn T trú tại: Khu phố T, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên về việc “Ly hôn”. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Tuy An. Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phan Tấn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần theo quy định pháp luật, tuy nhiên bị đơn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ Điều 227 và Điều 228 BLTTDS tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phan Tấn T tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, được UBND thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 14/01/2015 nên được coi là hôn nhân hợp pháp.

Chị H đề nghị Tòa án cho ly hôn vì trong quá trình sống chung anh T không quan tâm đến vợ con, vợ chồng bất đồng quan điểm, chị H đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án, sau đó đã rút đơn để vợ chồng hàn gắn cùng nhau chăm sóc con cái nhưng cuộc sống hôn nhân vẫn không cải thiện. Chị H và anh T không còn chung sống từ tháng 6/2023 đến nay. Chị H xác định hiện nay không còn tình cảm với anh T, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và chị H kiên quyết ly hôn với anh T. Quá trình giải quyết vụ án anh T được Tòa án triệu tập hòa giải nhiều lần nhưng đều vắng mặt là không có thiện chí hòa giải hàn gắn quan hệ hôn nhân, thể hiện sự thiếu trách nhiệm với gia đình.

HĐXX xét thấy tình trạng hôn nhân của chị H và anh T là trầm trọng do mâu thuẫn kéo dài và cả hai cũng không có biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn, đời sống chung của vợ chồng thực tế không tồn tại, khả năng hàn gắn không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[3] Về con chung: chị H và anh T có 01 con chung tên Phan Nguyễn Quỳnh A, sinh ngày 08/8/2015, cháu Quỳnh A đang sống cùng chị H, tình cảm mẹ con gắn bó, cháu Quỳnh A có nguyện vọng sống cùng chị H nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cháu Quỳnh A cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung, nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 227; Điều 228, Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Phan Tấn T.

2. Về con chung: Giao cháu Phan Nguyễn Quỳnh A, sinh ngày 08/8/2015 cho chị Nguyễn Thị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Anh Phan Tấn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Khi cần thiết, các đương sự có thể yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về ly hôn nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0000104 ngày 08/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 44/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:44/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy An - Phú Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/11/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;