Bản án về tranh chấp ly hôn số 44/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP-TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 44/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 06 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 19/2022/TLST-HNGĐ, ngày 21 tháng 01 năm 2022 về việc “Tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2022/QĐXXST-HN, ngày 31 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 27/2022/QĐST-HN, ngày 22 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lương Thị N, sinh năm 1977.

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Phạm Văn L, sinh năm 1978.

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết, nguyên đơn Lương Thị N (Sau đây gọi chị N) trình bày: Giữa chị và bị đơn Phạm Văn L (Sau đây gọi anh L) qua tìm hiểu nhau mà tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 1999, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng chị vũ phu, có hành vi chửi và đánh chị, từ đó tình cảm vợ chồng phai nhạt, đã nhiều lần hoà giải hàn gắn tình cảm nhưng không thành và chồng chị vẫn không sửa đổi được gì. Do cuộc sống chung không hạnh phúc, chị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: Xin ly hôn với anh L.

-Về con chung: Có hai người con chung nhưng một người đã đủ tuổi trưởng thành, người còn lại tên Phạm Thanh B (Nam), sinh ngày 21 tháng 5 năm 2011. Con chung, sống với chị N, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con chung, chưa yêu cầu cấp dưỡng.

Về nợ và tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa bị đơn Phạm Văn L trình bày: Thừa nhận lời trình bày của nguyên đơn về quan hệ hôn nhân và con chung. Về nguyên nhân mâu thuẫn, anh thừa nhận có lần đánh vợ nhưng anh đã xin lỗi, mâu thuẫn chủ yếu là do vợ anh thường xuyên bỏ nhà đi làm ăn xa không biết rõ được ở đâu và làm gì, anh xác định vợ chồng sống không được hạnh phúc nhưng do còn thương vợ và nghĩ đến các con nên anh chưa đồng ý ly hôn. Giả sử phải ly hôn, con chung sống với ai thì người đó nuôi dưỡng, người còn lại chưa phải cấp dưỡng. Tài sản và nợ không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 14 tháng 3 năm 2022, cháu B trình bày (có sự chứng kiến của chị N): Khi cha mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được sống với mẹ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn; giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng, bị đơn chưa cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là Tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: Chị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt đối với chị N.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh L qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 1999, đến ngày ngày 22 tháng 6 năm 2009 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị N: Chị và anh L trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị N trình bày là anh L có hành vi bạo lực gia đình là đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng, vợ chồng bất đồng quan điểm sống mà không có giải pháp khắc phục để hoà giải hàn gắn tình cảm. Anh L chưa đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được giải pháp nào để đoàn tụ, Trong khi chị N xác định không còn tình cảm với anh L và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa hai người đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N.

[5] Về con chung: Chị N có yêu cầu được nuôi con chung, yêu cầu này là phù hợp với nguyện vọng của cháu B. Nhằm tránh gây xáo trộn đời sống của cháu, cần tiếp tục giao cháu cho chị N nuôi dưỡng cho đến khi cháu Bình đủ 18 tuổi hoặc khi chị N, anh L có yêu cầu khác.

[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Chị N chưa yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét.

[7] Về nợ và tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp theo quy định pháp luật.

Lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận; Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 228 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lương Thị N và anh Phạm Văn L.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Phạm Thanh B (Nam), sinh ngày 21 tháng 5 năm 2011 cho chị Lương Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi chị N, anh L có yêu cầu khác.

Phạm Văn L chưa phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho Phạm Văn L mà không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu, không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Lương Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007715, ngày 21 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 44/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:44/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;