Bản án về tranh chấp ly hôn số 41/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 41/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 31 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 154/2021/TLST–HNGĐ, ngày 11 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2022/QĐXX-ST ngày 21 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng N, sinh năm 1995, địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện C, tỉnh Long An (vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Phan Trọng A, sinh năm 1994, cư trú tại: Khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Hồng N trình bày: Chị và bị đơn anh Phan Trọng A kết hôn vào năm 2016, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 68/2016, đăng ký ngày 01/7/2016 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Long An. Thời gian đầu cuộc sống chung của vợ chồng cũng hạnh phúc, nhưng đến giữa năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không tôn trọng nhau và không cùng quan điểm sống nên xảy ra cãi nhau. Ngoài ra, anh A không chung thủy với chị, anh A có quan hệ tình cảm với người khác. Chị và anh A không còn sống chung từ giữa năm 2019 đến nay. Trong thời gian ly thân, chị và anh A không sắp xếp hàn gắn được. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn với anh A. Về con chung: chị và anh A có 01 con chung là Phan Lê Gia H, sinh ngày 10/12/2019, hiện đang sống cùng với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Bị đơn anh Phan Trọng A đã được Tòa án cấp, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên hòa giải nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Thẩm quyền của Tòa án và quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào nơi cư trú và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, xét vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An và quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp ly hôn căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 các Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét nguyên đơn chị Lê Thị Hồng N có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn anh Phan Trọng A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Hồng N và anh Phan Trọng A kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T (nay là thị trấn B), huyện C, tỉnh Long An vào năm 2016 đúng với quy định tại các Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Chị N khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh A do trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn và sống ly thân từ giữa năm 2019 đến nay. Tòa án thụ lý vụ án và cấp, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên hòa giải vụ án nhiều lần nhằm tạo điều kiện cho chị N và anh A tìm biện pháp để hàn gắn lại tình cảm vợ chồng nhưng anh A vắng mặt không có lý do và cũng không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của chị N. Còn chị N kiên quyết ly hôn với anh A. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh A đã trầm trọng, đời sống chung hiện không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị N đối với anh A.

[4] Nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con: Chị N và anh A có 01 người con chung là Phan Lê Gia H, sinh ngày 10/12/2019. Chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, anh A không có văn bản thể hiện ý kiến đối với yêu cầu nuôi con chung của chị N. Xét thấy, con chung dưới 36 tháng tuổi, hiện đang sống với chị N, được chị N chăm sóc và có cuộc sống ổn định. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 2, 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao cho chị N được quyền trực tiếp nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con, do chị N tự nguyện không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Tài sản chung, nợ chung: Chị N trình bày chị và anh A không có tài sản chung, nợ chung; còn anh A cũng không có ý kiến, yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xét.

 [6] Án phí: Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 các Điều 35, 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn chị Lê Thị Hồng N đối với anh Phan Trọng A.

Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Hồng N và anh Phan Trọng A.

Về nuôi con chung: Giao cho chị Lê Thị Hồng N trực tiếp nuôi con chung là Phan Lê Gia H, sinh ngày 10/12/2019. Chị Lê Thị Hồng N không yêu cầu anh Phan Trọng A cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về án phí: Chị Lê Thị Hồng N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0012593 ngày 11/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Long An, chị N đã nộp đủ tiền án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 41/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:41/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;