Bản án về tranh chấp ly hôn số 41/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 41/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 77/2022/TLST-HNGĐ ngày 16/02/2022 về việc  “Tranh  chấp  ly  hôn”  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số  25/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/3/2022 và Quyết định hoãn phiên toà số  54/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Yến L, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Tổ 28, ấp PH, xã LP, huyện LT, tỉnh ĐN.

Bị đơn: Anh Võ Văn Đ, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ 11, ấp ĐM, xã LP, huyện LT, tỉnh ĐN (Chị L, anh Đ vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị  Nguyễn Thị Yến L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Võ Văn Đ chung sống tự nguyện, có làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã LP, huyện LT, tỉnh ĐN cấp giấy chứng nhận kết hôn số 88/2018 ngày 16/7/2018.

Trong thời gian chung sống anh Đ không tu chí làm ăn, mê chơi, tụ tập  bạn bè, sử dụng ma túy, chị L khuyên bảo thì vợ chồng bất đồng và xảy ra tranh cãi, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và sống ly thân 01 năm nay không hòa giải đoàn tụ.

Chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn, mâu thuẫn  vợ chồng đã trầm trọng, chị yêu cầu được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có 01 con chung tên là Võ Thiên K, sinh ngày 27/9/2018. Hiện con chung đang do chị nuôi dưỡng, ly hôn chị  L yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi con chung, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng.

Tài sản chung; Nợ chung: Không có, không yêu ầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Võ Văn Đ: Đã được Tòa án triệu tập hợp lệ theo trình tự thủ tục tố tụng nhưng vẫn vắng mặt và không có lời khai.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ được thực hiện đầy đủ, khách quan, thời hạn tố tụng được bảo đảm, các quyết định được tống đạt hợp lệ, phiên tòa được thực hiện dân chủ, bình đẳng. Người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, chấp hành tốt pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu tranh chấp ly hôn của chị  L. Xử cho chị Nguyễn Thị Yến L được ly hôn với anh Võ Văn Đ.

Về con chung: Đề nghị giao cháu Võ Thiên K, sinh ngày 27/9/2018 cho chị Nguyễn Thị Yến L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, tạm thời anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu.

Về tài sản chung; Nợ chung: Không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền: Tranh chấp phát sinh giữa chị Nguyễn Thị Yến L và anh Võ Văn Đ là tranh chấp ly hôn, đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn anh Võ Văn Đ cư trú tại xã LP, huyện LT, tỉnh ĐN nên tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Thành theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39  Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Võ Văn Đ đã được Tòa án triệu tập  hợp lệ để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do, chị Nguyễn Thị Yến L có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị  L và anh Đ chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Long Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 88/2018 ngày 16/7/2018 nên là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị  L cho rằng vợ chồng thường xuyên tranh cãi, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không còn chung sống 01 năm nay cũng không bàn bạc đoàn tụ.

Tòa án tố tụng nhiều lần mời anh Đ đến Tòa án làm việc nhưng anh Đ vẫn không có ý kiến, không có mặt tại phiên tòa thể hiện sự bỏ mặc quan hệ hôn nhân với chị  L. Xét thấy, hôn nhân giữa chị  L và anh Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng nên giải quyết cho chị  L được ly hôn với anh Đ là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: Có 01 con chung tên là Võ Thiên K, sinh ngày  27/9/2018. Chị  L yêu cầu giao con chung cho chị  L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Xét cháu K hiện đang do chị  L chăm sóc nuôi dưỡng, anh Đ không có ý kiến hay yêu cầu gì nên tiếp tục giao cháu K cho chị  L tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng để đảm bảo cho cháu phát triển ổn định về thể chất và tinh thần, anh Đ tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu.

[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị  L trình bày không có, anh Đ vắng mặt không có ý kiến, nên không xem xét.

[6]. Về án phí: Chị L phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[7]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành là  hoàn toàn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị  Yến L. Chị Nguyễn Thị Yến L được ly hôn với anh Võ Văn Đ.

Về con chung: Giao cháu Võ Thiên K,  sinh ngày 27/9/2016 cho chị Nguyễn Thị Yến L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, tạm thời anh Võ Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh Võ Văn Đ vẫn được quyền thăm nom con, không ai được cản trở anh Đ thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Yến L phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị  L đã nộp theo biên lai thu số 0005269 ngày 14/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, chị L đã nộp xong.

Chị Nguyễn Thị Yến L và anh Võ Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án  được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 41/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:41/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;