Bản án về tranh chấp ly hôn số 41/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 41/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 418/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2021 về việc tranh chấp Xin ly hôntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXX-ST ngày 06 tháng 01 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 07/2022 ngày 21/01/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị K, sinh năm 1989; HKTT: Thôn H, xã CB, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội; Hiện trú tại: Số 29C, ngõ 640/41 NVC, quận LB, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Giáo viên trường tiểu học C9, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. “Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt” Bị đơn: Anh Vũ Quốc H, sinh năm 1989; HKTT và nơi cư trú: Thôn H, xã CB, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/11/2021, các lời khai tại Tòa án trong quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị K trình bày:

Về tình cảm: Tôi và anh Vũ Quốc H có tìm hiểu nhau khoảng 01 tháng rồi đi đến kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 31/10/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng tôi chuyển về sinh sống cùng gia đình anh H tại Thôn H, xã CB, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội khoảng 5 -6 tháng. Sau đó vợ chồng tôi thuê nhà ra ngoài ở riêng tại thị trấn Trâu Quỳ khoảng 03 năm. Đến tháng 12/2017 , vợ chồng tôi chuyển về E, quận LB sinh sống và đến tháng 9/2019 tôi và anh H chuyển về sinh sống tại số 29C, ngõ 640/41 NVC, quận LB, TP Hà Nội. Trong quá trình chung sống, vợ chồng tôi đã xảy ra mâu thuẫn do chồng tôi chơi bời, cờ bạc, lô đề dẫn đến nợ nần thường xuyên , thậm chí đã nhiều lần anh H đánh tôi. Sau những lần cãi nhau vợ chồng tôi không ngồi lại nói chuyện với nhau , nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân sâu xa vẫn là do chồng tôi chơi bời, cờ bạc dẫn đến nợ nần. Đến tháng 04/2021 mâu thuẫn vợ chồng xảy ra trầm trọng , chúng tôi bắt đầu ly thân và đến tháng 7/2021 tôi cho anh H thêm cơ hội vợ chồng lại về sống chung. Trong thời gian đó anh H vẫn chứng nào tật đấy, vẫn ham mê cờ bạc, mặc dù tôi đã khuyên bảo nhưng anh H vẫn để ngoài tai. Đến tháng 11/2021 mâu thuẫn vợ chồng xảy ra trầm trọng, tôi và anh H lại tiếp tục ly thân, anh H về nhà bố mẹ sinh sống. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn anh Vũ Quốc H.

Về con chung: Tôi và anh Vũ Quốc H có 01 con chung tên Vũ Đức M, sinh ngày 05/11/2014. Hiện nay cháu H đang sinh sống cùng tôi, khi ly hôn tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M. Về cấp dưỡng nuôi con tôi không yêu cầu. Về điều kiện nuôi con, hiện nay tôi đang làm giáo viên dậy mỹ thuật tại trường tiểu học C9 lương tháng 4.600.000 đồng. Ngoài ra tôi còn làm chủ câu lạc bộ xưởng nghệ thuật NN có hai cơ sở tại T, quận HBT và NVC, quận LB mỗi tháng thu nhập khoảng 30.000.000 đồng. Về nơi ăn chốn ở tôi có 01 nhà riêng tại phường GT, quận LB, hiện nay hai mẹ con tôi đang sống ở đó. Tôi thấy có đủ khả năng để trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Vũ Quốc H không có mặt tại phiên tòa. Quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt cho anh H thông báo thụ lý vụ án số 418/2021/TLST- HNGĐ ngày 01/12/2021; Thông báo lời khai của chị Nguyễn Thị K; Các giấy triệu tập đến Tòa án để công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử, tuy nhiên anh Vũ Quốc H vẫn vắng mặt không có lý do, không có quan điểm, ý kiến tại Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Tòa án huyện Gia Lâm thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; Thẩm phán tiến hành tố tụng, xác định quan hệ pháp luật đúng; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án tại phiên tòa đúng quy định của pháp luật, đảm bảo đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng; Nguyên đơn chấp hành pháp luật, bị đơn không hợp tác, nhiều lần không đến Tòa án, không chấp hành pháp luật. Về ý kiến giải quyết vụ án: Chị K và anh H có đăng ký kết hôn ngày 31/10/2014 tại UBND xã CB, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội. Đến khoảng tháng 11/2021, mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Xét chị K và anh H không còn chung sống với nhau từ tháng 11/2021. Chị K, anh H đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng theo khoản 2 Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, cho chị K được ly hôn với anh H là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: Có 01 con chung tên Vũ Đức M, sinh ngày 05/11/2014. Khi ly hôn, giao cháu M cho chị K được chăm sóc và nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chị K không yêu cầu, đề nghị tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con của anh H cho chị K đến khi cháu M trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc khi có yêu cầu mới. Về tài sản chung, nợ chung: Chị K không yêu cầu, đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án lệ phí Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Nhận định về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án do chị K có đơn yêu cầu ly hôn, căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án. Về thẩm quyền theo cấp Tòa án, Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hôn nhân gia đình quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của BLTTDS, bị đơn đăng ký hộ khẩu thường trú và có nơi cư trú tại thôn H, xã CB, huyện Gia Lâm, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, TAND huyện Gia Lâm thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền theo lãnh thổ và cấp tòa án.

[2]. Nhận định về việc xét xử vắng mặt nguyên đơn là chị Nguyễn Thị K: Xét thấy ngày 25/01/2022 chị Ký có đơn xin xét xử vắng mặt, chị Ký giữ nguyên lời khai trong quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 227 BLTTDS, HĐXX tiếp tục xét xử vắng mặt chị Ký là có căn cứ Nhận định về việc xét xử vắng mặt anh Vũ Quốc H: Xét thấy tại phiên tòa hôm nay anh H vắng mặt là lần thứ 2 không có lý do chính đáng mà không có người đại diện tham gia phiên tòa, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khác quan, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của BLTTDS, HĐXX tiếp tục xét xử vắng mặt anh H là có căn cứ.

[3]. Nhận định về tình cảm, mâu thuẫn vợ chồng: Chị Nguyễn Thị K và anh Vũ Quốc H đăng ký kết hôn ngày 31/10/2014 tại Ủy ban nhân dân xã CB, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội, có xuất trình trích lục kết hôn bản sao, đủ cơ sở kết luận đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

- Về mâu thuẫn vợ chồng: Tại quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa chị Nguyễn Thị K trình bày: Sau khi kết hôn, vợ chồng có mâu thuẫn, do anh H cờ bạc, nợ nần. Đến tháng 11/2021 thì vợ chồng chính thức ly thân cho đến nay. Lời khai của chị K phù hợp với lời khai của ông Vũ Văn C2 là bố đẻ anh H trình bày chị K và anh H trong thời gian sống chung thường xuyên xảy ra cãi nhau và sống ly thân nhau từ tháng 11/2021 đến nay, nên lời khai của chị K là có căn cứ, xác định chị K anh H có mâu thuẫn và mâu thuẫn trầm trọng, sống ly thân nhau từ tháng 11/2021 đến nay, chị K và anh H đều vi phạm quyền và nghĩa vụ vợ chồng theo Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình là “vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau trừ khi có thỏa thuận khác…” dẫn đến hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nên cho chị K được ly hôn với anh H là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Nhận định về con chung vợ chồng: Chị K và anh H có 01 con chung tên Vũ Đức M, sinh ngày 05/11/2014. Cháu M có nguyện vọng sống với mẹ. Chị K có nhà ở ổn định, có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Anh H không trình bày nguyện vọng về nuôi con. Xét giao con cho chị K tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng sau khi ly hôn là đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho cháu M theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị K không yêu cầu, Tòa án không xem xét giải quyết là có căn cứ.

[5]. Nhận định về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Chị Nguyễn Thị K không yêu cầu, Tòa án không xem xét giải quyết.

[6]. Nhận định về án phí ly hôn sơ thẩm: Yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị K được chấp nhận nên chị K phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ quốc H quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, các Điều 269, 271, 272, 273, 277 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 19, 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc H quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị K đối với anh Vũ Quốc H. Xử cho chị Nguyễn Thị K được ly hôn với anh Vũ Quốc H.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị K và anh Vũ Quốc H có 01 con chung tên Vũ Đức M, sinh ngày 05/11/2014. Khi ly hôn, giao cháu M cho chị Ký được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có yêu cầu mới. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con của anh Huy cho chị Ký đến khi cháu M đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có yêu cầu mới. Anh Vũ Quốc H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Chị Nguyễn Thị K không yêu cầu, Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị K phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chị Ký đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số AA/2020/0072950 ngày 01/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, nay chuyển thành án phí ly hôn.

Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Báo cho chị Nguyễn Thị K, anh Vũ Quốc H vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 41/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:41/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;