Bản án về tranh chấp ly hôn số 38/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 38/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 03/2022/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXX-ST ngày 05/4/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hàng N, sinh năm 1995, địa chỉ: Đường L, Phường X, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Huỳnh Nguyên T, sinh năm 1993, địa chỉ: Thôn P, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn Nguyễn Thị Hàng N trình bày: Chị kết hôn với anh Huỳnh Nguyên T vào năm 2019 tại UBND xã B, hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Quá trình sinh sống với nhau, cuộc sống vợ chồng cũng có nhiều mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra cãi vã lẫn nhau. Tuy nhiên con còn nhỏ nên chị cố gắng duy trì cuộc sống chung của vợ chồng. Đến năm 2020, nảy sinh mâu thuẫn trầm trọng do chồng thường xuyên cãi vã, đánh đập chị, không lo làm ăn nuôi gia đình, cuộc sống vợ chồng bế tắc, không có thể hàn gắn được. Từ năm 2020 đến nay không còn chung sống với nhau nữa, không ai quan tâm đến cuộc sống của ai. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh K, sinh năm 2019. Từ khi cháu sinh ra thì ở với chị, nhưng khi cháu được 01 tuổi thì cuộc sống của chị khó khăn quá nên gửi về cho bà nội của cháu là bà Nguyễn Thị Mỹ A nuôi dưỡng từ đó đến nay. Chị đi làm rồi gửi tiền mua sữa, tã cho cháu. Anh T cũng ở chung với cha mẹ ruột, cùng chăm sóc con. Nay khi ly hôn thì do công việc chị thường xuyên vắng nhà nên không có thời gian chăm sóc con chung, nên chấp nhận để anh T nuôi con, chị sẽ tự nguyện chu cấp cho con mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi cháu trưởng thành.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Bị đơn Huỳnh Nguyên T trình bày: Anh kết hôn với chị Nguyễn Thị Hàng N vào năm 2019 tại UBND xã B, hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Quá trình sinh sống với nhau, cuộc sống vợ chồng cũng có nhiều mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra cãi vã. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không cùng quan điểm sống, không chia sẻ được công việc gia đình cũng như chăm sóc con cái. Từ năm 2020 đến nay không còn chung sống với nhau nữa, không ai quan tâm đến cuộc sống của ai. Nay chị N yêu cầu ly hôn anh cũng chấp nhận, yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh K, sinh năm 2019. Từ khi cháu sinh ra thì ở với mẹ nhưng sau đó cháu K về ở với anh và bà nội tại Thôn P, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Nay, vợ chồng ly hôn, anh yêu cầu được nuôi cháu K, yêu cầu nguyên đơn phải chu cấp nuôi con 1.000.000 đồng mỗi tháng cho đến khi cháu Khánh trưởng thành.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 118 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn được ly hôn với bị đơn; Về con chung: Giao cháu Huỳnh K cho bị đơn chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục. Nguyên đơn có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng mỗi tháng cho đến khi phát sinh một trong các điều kiện chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định pháp luật. Nguyên đơn có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu nên không xét; Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp ly hôn, nuôi con với bị đơn Huỳnh Nguyên T có địa chỉ thường trú tại Thôn P, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên giải quyết theo thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Thủ tục tố tụng: Các đương sự vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự.

[3] Quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn Nguyễn Thị Hàng N và bị đơn Huỳnh Nguyên T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, được UBND xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 36/2019 ngày 26/6/2019. Hôn nhân của chị N và anh T đảm bảo về điều kiện kết hôn và đúng nghi thức theo quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp.

[4] Nguyên đơn trình bày cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên đơn hay bị đánh đập, vợ chồng hay xảy ra kình cãi lẫn nhau, bị đơn không quan tâm đến cuộc sống gia đình, cuộc sống có nhiều bế tắc, không được hàn gắn. Hiện nay, hai bên đã sống ly thân, không ai quan tâm, chia sẻ cuộc sống gia đình với nhau. Bị đơn cũng thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng, đồng ý ly hôn. Xét các bên đương sự không còn tình thương và trách nhiệm của vợ chồng giành cho nhau, vi phạm nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình. Xét mâu thuẫn giữa các đương sự đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nguyên đơn được ly hôn với bị đơn.

[5] Con chung: Giữa nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung tên Huỳnh K, sinh ngày 28/6/2019. Xét hiện nay tuy cháu K dưới 36 tháng tuổi nhưng thực tế đang ở với cha, do bị đơn T trực tiếp chăm sóc đã ổn định về điều kiện sống, sinh hoạt. Nguyên đơn cũng trình bày vì cuộc sống khó khăn nên không thể nuôi và chăm sóc con nên chấp nhận giao con cho cha nuôi. Vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần của cháu K và phù hợp với thực tế, Hội đồng xét xử xét giao cháu Huỳnh K cho bị đơn Tính trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Cấp dưỡng nuôi con: Bị đơn Huỳnh Nguyên T yêu cầu nguyên đơn cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000 đồng mỗi tháng cho đến khi cháu Khánh trưởng thành. Nguyên đơn N tự nguyện mức cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000 đồng mỗi tháng cho đến khi cháu K trưởng thành. Xét việc cấp dưỡng là tự nguyện của nguyên đơn, phù hợp với thu nhập thực tế của nguyên đơn nên chấp nhận.

[7] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[8] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 118 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị Hàng N được ly hôn với bị đơn Huỳnh Nguyên T.

2. Về con chung: Giao con chung Huỳnh K, sinh ngày 28/6/2019 cho bị đơn Huỳnh Nguyên T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Nguyên đơn Nguyễn Thị Hàng N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000 đồng/tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ ngày xét xử vụ án cho đến khi phát sinh một trong các điều kiện về chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình.

Người không nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp cần thiết, các bên đương sự có quyền được yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

3. Về án phí HNGĐ-ST: Nguyên đơn Nguyễn Thị Hàng N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự liên quan đến cấp dưỡng nuôi con, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai số 0004937 ngày 04/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Nguyên đơn N cần phải tiếp tục nộp 300.000 đồng.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 38/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:38/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;