TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ - TP. ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 380/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 23 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Cẩm Lệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 175/2022/TLST-HNGĐ ngày 23/5/2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 113/2022/QĐ-ST ngày 16 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Trần Như O, sinh năm 1991; Địa chỉ: Tổ 17, phường H T Đ, quận C L, thành phố Đà Nẵng. Có mặt - Bị đơn: Ông Nguyễn D, sinh năm 1992; Địa chỉ: Tổ 19, phường H T T, quận C L, thành phố Đà Nẵng. vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án ngày 26 tháng 4 năm 2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Trần Như O trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng bà kết hôn vào ngày 27/01/2022, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng bà cùng nhau sống chung tại tổ 19, phường H T T, quận C L, thành phố Đà Nẵng. Thời gian chung sống, đến ngày 14/4/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông D thường xuyên đánh đập bà O, việc cưới xin không tổ chức mà chỉ đăng ký kết hôn và sống chung nên ông D không tôn trọng bà, thường xuyên đánh đập vì những lý do vô cớ. Ngoài ra, khi sống chung với ông D, bà còn dẫn con riêng về sống chung và cũng thường xuyên bị ông D đánh đập bầm dập và còn bị ông D hù dọa. Từ tháng 4 năm 2022 đến nay bà đã bỏ về nhà mẹ đẻ của bà để sống. Nay bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án cho bà được ly hôn với ông D.
Về quan hệ con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Trần Như O xác nhận vợ chồng bà không có.
Bị đơn ông Nguyễn D mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn không đến Tòa án tham gia tố tụng cũng như không có văn bản trình bày ý kiến.
* Phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng trình tự quy định của pháp luật. Đối với các đương sự: Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Quan điểm giải quyết vụ án:
Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Trần Như O và ông Nguyễn D đã thực sự trầm trọng, qua xác minh tại địa phương xác định ông D thường xuyên đánh đập bà O, sử dụng bạo lực gia đình khiến bà O và con riêng của bà O phải bỏ về nhà mẹ đẻ để ở. Do vậy, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Trần Như O, xử cho bà O được ly hôn với ông D.
Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà O xác nhận không có nên đề nghị HĐXX không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa HĐXX nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Bị đơn ông Nguyễn D có địa chỉ nơi cư trú tại tổ 19, phường Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng nên Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn ông Nguyễn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, do đó căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX xét xử vắng mặt ông Nguyễn D.
Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Trần Như O và ông Nguyễn D có đăng ký kết hôn vào ngày 27/01/2022 tại Ủy ban nhân dân phường Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân của bà O, ông D trên cơ sở tự nguyện nên hôn nhân hợp pháp và được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống, theo bà O trình bày là vợ chồng bà phát sinh mâu thuẫn bắt đầu từ tháng 4 năm 2022, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông D thường xuyên đánh đập, chửi bới bà và con riêng của bà, đánh quá nhiều lần nên bà không chịu nổi nữa và bỏ đi về nhà mẹ đẻ để ở từ tháng 4 năm 2022. Nay bà xét thấy bà không còn tình cảm với ông D, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Tòa án cho bà được ly hôn với ông D.
[4] Đối với ông D mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông D vẫn vắng mặt và không đến Tòa án hòa giải, điều này thể hiện ông D không có động thái trong việc mong muốn đoàn tụ gia đình, cũng như không có ý kiến về việc bà O yêu cầu ly hôn. Căn cứ biên bản xác minh do Tòa án tiến hành vào ngày 26/8/2022, địa phương nơi vợ chồng bà O, ông D cư trú cung cấp: “Ông Nguyễn D và bà Nguyễn Trần Như O sau khi kết hôn có sống chung tại nhà riêng của ông Nguyễn D tại địa chỉ tổ 19, phường Hòa Thọ Tây, ông D có đăng ký hộ khẩu nhưng bà O thì chưa đăng ký. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống thời gian ngắn thì ông Nguyễn D nhiều lần đánh đập bà O và con riêng của bà O dẫn đến bà O phải bỏ nhà đi từ đầu năm 2022 đến nay không trở về nhà”.
[5] Căn cứ lời trình bày của nguyên đơn, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, HĐXX xét thấy: Mâu thuẫn giữa vợ chồng bà O, ông D đã đến mức trầm trọng, thể hiện ở chỗ ông D thường xuyên sử dụng bạo lực với bà O, đánh đập bà O và con riêng của bà O khiến cho bà O phải bỏ nhà về nhà mẹ đẻ của bà để sống. Điều này chứng tỏ ông D không yêu thương, quan tâm chăm sóc gì bà O mà chỉ sử dụng bạo lực gia đình, gây phạm đến sức khỏe của bà O. Qua xác minh tại địa phương, HĐXX có cơ sở khẳng định, bà O và ông D không còn khả năng đoàn tụ gia đình, mặc dù thời gian đăng ký kết hôn vào đầu năm 2022, tuy nhiên mâu thuẫn giữa ông D và bà O đã đến mức trầm trọng. Do vậy, có cơ sở khẳng định đời sống chung giữa vợ chồng bà O ông D không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà O đối với ông D là phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
[6] Về quan hệ con chung, về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Trần Như O xác nhận không có nên HĐXX không đề cập giải quyết.
[8] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm bà O phải chịu là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Các điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 55, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình;
- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Trần Như O về việc ly hôn đối với ông Nguyễn D.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Trần Như O được ly hôn ông Nguyễn D.
2. Về quan hệ con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Trần Như O xác nhận không có.
3. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm bà Nguyễn Trần Như O phải chịu là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0001894 ngày 23/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
4. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 380/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 380/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về