Bản án về tranh chấp ly hôn số 373/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 373/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 59/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2021/QĐXX-ST ngày 28 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2021/QĐHPT-ST ngày 21/5/2021 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Hƣớng Thị Kim H1, sinh năm: 1969 (có mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã TH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang

-Bị đơn: Nguyễn Văn H, sinh năm: 1965 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã TH, huyện CT, Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11/01/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Hướng Thị Kim H1 trình bày : Bà và ông H về sống chung với nhau vào năm 1993, không có đăng ký kết hôn. Bà về sống bên nhà riêng của ông Hội, bà ở nhà nội trợ, ông Hội làm vườn, chung sống hạnh phúc đến khi có con thì ông H bắt đầu sinh tật nhậu nhẹt về nhà chửi vợ con, vì con nên bà cố chịu đựng. Khi có đứa con thứ hai thì ông Hội cũng không thay đổi, nhậu nhẹt nhiều hơn và thường chửi, đập phá đồ đạc trong nhà. Kéo dài nhiều năm nên vợ chồng thường hay cãi nhau, sống không hạnh phúc, từ ngày bà đi làm công ty thì ông H còn ghen tuông vô căn cứ nên vợ chồng thường hay cãi nhau lớn tiếng. Đến năm 2015 bà có về quê bà ở xã LA cất nhà ở, được một thời gian thì bà có trở về nhưng ông Hội vẫn không thay đổi nên vợ chồng lại thường cãi nhau. Năm 2019 bà đi luôn cho đến nay. Nay, bà không còn tình cảm với ông H nêu yêu cầu được ly hôn.

-Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Hướng T, sinh năm 1994 đã trưởng thành và Nguyễn Thế Tr, sinh 26/4/2004 chưa trưởng thành. Bà đồng ý để ông H tiếp tục nuôi cháu Truyền, bà không cấp dưỡng mà sẽ có trách nhiệm lo cho con.

-Về tài sản chung: Không có.

-Về nợ chung: Không có.

*Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/4/2021 bị đơn là ông Nguyễn Văn H trình Ông và bà H1 cưới nhau vào năm 1993, đến nay không có đăng ký kết hôn.

Trong thời gian chung sống, vợ chồng không có mâu thuẫn hay gây gỗ gì. Cách nay khoảng 02 năm thì bà Hồng tự ý bỏ về quê ở xã PT, Tp MT, tỉnh Tiền Giang. Ban đầu bà H1 nói về quê chơi nhưng ông không hiểu lý do gì không chịu về. Tuy nhiên từ đó đến nay bà H1 cũng có tới lui về nhà, khi ông bị bệnh thì về chăm sóc. Cách nay khoảng 10 ngày ông có nằm viện thì thì bà H1 là săn sóc cho ông. Vợ chồng không có mâu thuẫn gì nên ông không đồng ý ly hôn.

Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Hướng T, sinh năm 1994 đã trưởng thành và Nguyễn Thế Tr, sinh 26/4/2004 chưa trưởng thành. Nếu Tòa án cho bà H1 ly hôn thì ông đồng ý tiếp tục nuôi dưỡng cháu Tr, không yêu cầu bà H1 cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, bà H1 vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, ông H vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến:

+Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng, bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

+Về việc giải quyết vụ án: đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà H1 và ông H; giao ông H tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Thế T, sinh năm 2004, bà H1 không phải cấp dưỡng nuôi con do ông H không yêu cầu; tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên ghi nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Văn H được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Hội.

[2] Về hôn nhân: Bà Hướng Thị Kim H1 và ông Nguyễn Văn H sống chung với nhau vào năm 1993, không có đăng ký kết hôn. Hai người chung sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường hay cãi nhau, đến năm 2015 thì bà H1 bỏ đi, vợ chồng sống ly thân cho đến nay, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không có khả năng hàn gắn. Nay bà H1 xin ly hôn, ông H có lời khai không đồng ý ly hôn.

Xét thấy bà H1 và ông H chung sống với nhau như vợ chồng, đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn, sau khi về chung sống ông bà cũng không đi đăng ký kết hôn cho đến nay, vì vậy việc sống chung của ông bà không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Nay bà H1 xin ly hôn, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không công nhận quan hệ giữa bà H1 và ông H là vợ chồng.

[3] Về con chung: bà Hồng và ông Hội có 02 con chung tên Nguyễn Hướng T, sinh năm 1994 đã trưởng thành và Nguyễn Thế Tr, sinh 26/4/2004 chưa trưởng thành. Bà H1 đồng ý để ông H tiếp tục nuôi cháu Tr, bà không cấp dưỡng.

Xét thấy cháu Tr đã sinh sống ổn định với ông H từ nhỏ cho đến nay, ông H cũng có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con. Để ổn định về mặt tâm lý cũng như nơi sinh sống cho cháu Tr, H đồng xét xử cần giao cho ông H tiếp tục nuôi dưỡng cháu Tr.

Về cấp dưỡng nuôi con, do ông H không yêu cầu bà H1 cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Bà H1 trình bày không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về nợ chung: Bà H1, ông H trình bày không có.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bà Hồng phải nộp 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

[7] Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên xử:

1. Không công nhận quan hệ giữa bà Hướng Thị Kim H1 và ông Nguyễn Văn H là vợ chồng.

2. Về con chung: giao con chung tên Nguyễn Thế Tr, sinh ngày 26/4/2004 cho ông Nguyễn Văn H tiếp tục nuôi dưỡng. Bà H1 không phải cấp dưỡng nuôi con do ông H không yêu cầu.

Bà H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có

5. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: bà Hướng Thị Kim H1 chịu là 300.000đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng tại biên lai số 0003899 ngày 25/01/2021 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xem như đã nộp xong án phí.

6. Bà Hồng có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Hội có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 373/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:373/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;