Bản án về tranh chấp ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 127/2022/TLST – HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Lê Hữu Song X, sinh năm 1975 Địa chỉ: ấp H, xã H, thành phố T, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Phạm Thị V, sinh năm 1960 Địa chỉ: ấp L, xã P, huyện D, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 09/02/2022, bản tự khai ngày 25/3/2022 và trong quá trình hòa giải, xét xử, nguyên đơn anh Lê Hữu Song X trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị V tìm hiểu nhau khoảng 03 năm sau đó tự nguyện tiến tới hôn nhân, không làm đám cưới nhưng hai bên có làm tiệc và sống chung từ năm 2004, sau đó có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Hưng, thành phố Bến Tre vào năm 2006. Thời gian đầu sống chung có hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do chị V thường xuyên ghen tuông vô cớ, cho rằng anh ngoại tình, có quan hệ với người phụ nữ khác nhưng thực tế không có mà chỉ là bạn bè nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên cự cãi, chị còn đuổi anh ra khỏi nhà. Anh đã về nhà mẹ ruột ở và ly thân từ tháng 7/2020 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên anh yêu cầu được ly hôn với chị V.

- Về nuôi con chung: Không có.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết vì chỉ có 01 chiếc xe gắn máy hiệu Wase, biển số 71C4-30.971 do chị V đứng tên, hiện do anh đang quản lý sử dụng. Nếu chị V đồng ý ký tên ly hôn thì anh tự nguyện đồng ý giao chiếc xe này cho chị.

- Về nợ chung: Không có.

- Tại phiên Tòa: Anh X vẫn giữ yêu cầu khởi kiện không thay đổi gì.

* Tại bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 25/3/2022, ngày 21/4/2022 và trong quá trình xét xử, bị đơn chị Phạm Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh X có tìm hiểu nhau khoảng 03 năm sau đó tự nguyện tiến tới hôn nhân, không làm đám cưới nhưng hai bên có làm tiệc nhỏ và sống chung từ năm 2004 và sau đó có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Hưng, thành phố Bến Tre vào năm 2006.

Thời gian đầu sống chung có hạnh phúc nhưng đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do chị có ghen tuông nhưng không có chửi và đuổi anh như lời anh trình bày, vì nguyên nhân do anh X ngoại tình có người phụ nữ khác, sau đó lại về làm đơn ly hôn với vợ.

Chính vì vậy, nay qua yêu cầu ly hôn của anh X chị không đồng ý ly hôn vì chị không làm gì sai. Hoặc chị chỉ đồng ý ly hôn khi anh X giải quyết thỏa đáng đồng ý giao lại chị toàn bộ số tiền hụi 46.080.000 đồng và 01 chiếc xe gắn máy anh đang sử dụng giao cho chị hết, còn nếu không thì chị không đồng ý ly hôn.

Vợ chồng ly thân từ tháng 7/2020 đến nay, anh X về nhà mẹ ruột ở.

- Về nuôi con chung: Không có.

- Về tài sản chung: Chị yêu cầu anh X phải trả lại cho chị số tiền hụi là 46.080.000 đồng và 01 chiếc xe gắn máy hiệu Wase, biển số 71C4-30.971 do chị đứng tên nhưng hiện do anh X đang quản lý sử dụng.

- Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ hôn nhân:

Anh Lê Hữu Song X và chị Phạm Thị V sống chung với nhau vào năm 2004 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Hưng, thành phố Bến Tre vào năm 2006 theo đúng quy định của pháp luật, nên quan hệ hôn nhân giữa anh X và chị V được công nhận hợp pháp.

Nay anh X yêu cầu ly hôn, chị V không đồng ý ly hôn vì chị không làm gì sai, do anh X ngoại tình có người phụ nữ khác, sau đó lại về làm đơn ly hôn với vợ. Hội đồng xét xử xét thấy:

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cũng như lời trình bày của 02 bên tại Tòa đều xác định được cuộc sống vợ chồng của anh chị đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị V thường xuyên ghen tuông, vợ chồng cự cãi, mất niềm tin lẫn nhau, dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Anh X đã về nhà mẹ ruột ở và ly thân từ tháng 7/2020 đến nay. Tòa án cũng đã tạo điều kiện cho hai bên tìm cách hàn gắn lại tình cảm, nhưng cho đến nay vẫn không hàn gắn lại được.

Qua đó, có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa anh X và chị V đã không còn quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của anh và chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của anh X là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2]. Về nuôi con chung: Hai bên khai thống nhất không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[3]. Về tài sản chung: Anh X trình bày tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

Chị V thì yêu cầu anh X phải trả lại cho chị số tiền hụi là 46.080.000 đồng và 01 chiếc xe gắn máy hiệu Wase, biển số 71C4-30.971 do chị đứng tên nhưng hiện do anh X đang quản lý sử dụng.

Tuy nhiên, Tòa án đã ra Thông báo yêu cầu chị làm đơn khởi kiện và nộp tiền tạm ứng án phí về việc yêu cầu chia tài sản khi ly hôn theo quy định (nếu thuộc trường hợp người cao tuổi thì phải làm đơn xin miễn, giảm nộp tiền tạm ứng án phí) và tống đạt hợp lệ cho chị. Hết thời hạn quy định, mặc dù Tòa án đã giải thích quyền lợi, nghĩa vụ cho chị biết nhưng chị V vẫn không thực hiện mà chị xác định: yêu cầu anh X phải trả lại số tiền hụi là 46.080.000 đồng và 01 chiếc xe gắn máy hiệu Wase, biển số 71C4-30.971 thì chị mới đồng ý ký tên ly hôn, còn nếu không thì chị không ký tên, để Tòa án xử.

Nếu Tòa án xử buộc chị phải ly hôn với anh X, thì anh phải thực hiện đúng lời đã nói là tự nguyện giao xe cho chị. Còn số tiền hụi là 46.080.000 đồng trong vụ án này chị chỉ trình bày vậy thôi, nếu anh đồng ý đưa thì chị ký tên ly hôn, còn không thì sau này khi cần thiết chị sẽ khởi kiện anh bằng vụ án khác.

Vì vậy, trong vụ án này Tòa án không giải quyết vấn đề chia tài sản chung của anh X và chị V, mà sau này khi cần thiết thì anh và chị có quyền khởi kiện bằng vụ án chia tài sản sau khi ly hôn.

[4]. Về nợ chung: Hai bên khai thống nhất không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[5]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Anh Lê Hữu Song X phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Lê Hữu Song X đối với chị Phạm Thị V.

Cho ly hôn giữa anh Lê Hữu Song X và chị Phạm Thị V.

Quan hệ hôn nhân giữa anh Lê Hữu Song X và chị Phạm Thị V chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con chung: Hai bên khai không có, nên không xét đến.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết, nên không xét đến.

4. Về nợ chung: Hai bên khai không có, nên không xét đến.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Anh Lê Hữu Song X phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh X đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005973 ngày 08 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Như vậy, anh Lê Hữu Song X đã nộp đủ án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;