Bản án về tranh chấp ly hôn số 33/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 33/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10/7/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 59/2020/TLST- HNGĐ ngày 13/02/2020 về tranh chấp“Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2020/QĐXX-ST ngày 08/6/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24/6/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị Tuyết H, sinh năm 1995 Trú tại: đường H, phường S, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn N, sinh năm 1992 Trú tại: Thôn T, xã K, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Võ Thị Tuyết H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Tuyết H và anh Lê Văn N tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã K, thành phố T, vào năm 2013. Đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh N chơi cờ bạc. Mặc dù đã được gia đình hàn gắn nhưng anh N vẫn không thay đổi. Đến năm 2018 giữa chị H và anh N không còn chung sống với nhau, mạnh ai nấy sống, không ai còn quan tâm đến ai. Nay chị H đề nghị Toà án giải quyết cho vợ chồng được ly hôn.

- Về con chung: có 02 con chung là Lê Việt P, sinh ngày 21/8/2012 và Lê Việt P1, sinh ngày 31/7/2014. Từ khi hai bên xa nhau cho đến nay anh N và cha anh N là người trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng giáo dục hai cháu. Các cháu có cuộc sống ổn định nên chị H thống nhất giao 02 con cho ông N trực tiếp nuôi dưỡng và đồng ý cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng/cháu.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết Bị đơn vắng mặt nên không có lời trình bày.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 17/3/2020 cha mẹ của anh N trình bày: Thời gian đầu vợ chồng chị H, anh N chung sống hạnh phúc. Cách đây 04 năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh N không lo làm ăn, hai bên hay kình cãi nên chị H bỏ đi làm ăn xa từ năm 2018. Ông có nhận được giấy triệu tập của Tòa án và có thông báo lại với anh N nhưng anh N đi làm ăn không về được và có nói với ông “ông N đồng ý ly hôn với chị H, đồng ý nuôi hai con, tài sản chung, nợ chung không có”.

Tòa án nhân dân thành phố T đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải nhưng không thành Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật; bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Võ Thị Tuyết H; Về con chung: giao 02 con chung cho anh Lê Văn N nuôi dưỡng và chị H cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng/cháu (2.000.000đ/tháng/2 cháu); về tài sản chung: không xem xét; về án phí nguyên đơn phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Tuyết H và anh Lê Văn N tự nguyện tìm hiểu và kết hôn vào năm 2013, được UBND xã K, thành phố T, tỉnh Phú Yên cấp giấy chứng nhận kết hôn số 14/2013 ngày 14/3/2013 là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống phát sinh những mâu thuẫn như đương sự đã trình bày; các đương sự không còn chung sống cùng nhau từ năm 2018 cho đến nay, không ai quan tâm và chăm sóc đến nhau nữa. Xét thấy, mâu thuẫn giữa các đương sự đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể hàn gắn chung sống trở lại nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn được ly hôn với bị đơn.

Về con chung: Lê Việt P, sinh ngày 21/8/2012 và Lê Việt P1, sinh ngày 31/7/2014. Từ ngày chị H và anh N ly thân cho đến nay. Anh N và cha mẹ anh N là người trực tiếp nuôi dưỡng các cháu, đồng thời các cháu cũng đã có cuộc sống ổn định. Cháu Lê Việt P trình bày nguyện vọng muốn ở với anh Lê Văn N. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của chị Võ Thị Tuyết H. Giao 02 cháu Lê Việt P và cháu Lê Việt P1 cho anh Lê Văn N tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Buộc nguyên đơn chị H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ/tháng/cháu. Thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi phát sinh một trong các trường hợp quy định tại Điều 118 luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn chị Võ Thị Tuyết H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

-Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, chị Võ Thị Tuyết H được ly hôn anh Lê Văn N.

-Về con chung: Giao cho anh Lê Văn N được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con Lê Việt P, sinh ngày 21/8/2012 và Lê Việt P1, sinh ngày 31/7/2014 (hiện nay đang ở với anh N và phù hợp nguyện vọng của cháu P). Buộc nguyên đơn chị Võ Thị Tuyết H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ/ cháu (2.000.000đ/2 cháu/tháng) Thời hạn cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi phát sinh một trong các trường hợp quy định tại Điều 118 luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

-Về tài sản chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét Về án phí : Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Nguyên đơn chị Võ Thị Tuyết H phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm (án phí cấp dưỡng nuôi con) nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu số 0001199 ngày 13/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố T, tỉnh Phú Yên, nên còn phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng).

Nguyên đơn, Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 33/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;