Bản án về tranh chấp ly hôn số 268/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 268/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1563/2021/TLST – HNGĐ ngày 07 tháng 07 năm 2021, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 247/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/10/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Bà Ngô Thị Trà M, sinh năm 1990

- Bị đơn Ông Lê Trường S, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Tổ 1, khu phố 2, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà M và ông S đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản hòa giải nguyên đơn bà Ngô Thị Trà M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà M và ông Lê Trường S tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện P, tỉnh An Giang vào năm 2015.

Trong quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, thường xuyên xảy ra cãi vã dẫn đến gia đình luôn căng thẳng. Cả hai đã nhiều lần cố gắng khắc phục mâu thuẫn để hàn gắn hạnh phúc nhưng vẫn không có kết quả. Đến nay, nhận thấy tình cảm thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông Lê Trường S.

Về con chung: Quá trình chung sống, hai người có 01 con chung là cháu Lê Thị Gia N, sinh ngày 09/05/2016. Ly hôn bà M xin được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc cháu N. Tạm thời, bà không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà M và ông S tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Bà M khai không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Lê Trường S trình bày tại bản tự khai và biên bản hòa giải: Ông S đồng ý với lời khai của bà M về quá trình hai người tìm hiểu và đi đến kết hôn. Ông thừa nhận trong quá trình chung sống giữa hai ông bà có xảy ra mâu thuẫn, hai vợ chồng thường xảy ra cãi vã do ông thường ghen tuông vợ. Tuy nhiên, ông còn thương vợ, thương con nên bà M xin ly hôn, ông không đồng ý.

Về con chung: Ông xác định, quá trình chung sống, hai người có 01 con chung là cháu Lê Thị Gia N, sinh ngày 09/05/2016. Mặc dù không đồng ý ly hôn, nhưng ông đồng ý với yêu cầu của bà M về việc giao cháu N cho bà M nuôi dưỡng, về vấn đề cấp dưỡng nuôi con ông và bà M sẽ tự thỏa thuận.

Về tài sản chung: Ông và bà M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B:

Về việc kiểm soát chấp hành pháp luật tố tụng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà Ngô Thị Trà M được ly hôn với ông Lê Trường S, bởi giữa hai người đã không còn tình cảm, cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Tòa án cũng đã hòa giải đoàn tụ cho hai bên, nhưng bà M vẫn nhất quyết ly hôn.

- Veà quan heä con chung: Do cháu Gia N còn nhỏ, cần phải có sự chăm sóc của người mẹ, mặt khác ông S cũng đồng ý giao con cho bà M nuôi dưỡng. Do đó, cần thiết áp dụng các Điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

chấp nhận yêu cầu của bà M, giao cháu Lê Thị Gia N cho bà Ngô Thị Trà M trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng; Ông S không phải cấp dưỡng nuôi con do bà M không yêu cầu. Vì không trực tiếp nuôi con nên ông S được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: các bên không yêu cầu giải quyết. Do đó, không đặt ra xem xét.

Về án phí: Bà Ngô Thị Trà M phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

- Bà Ngô Thị Trà M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Trường S; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà M là nguyên đơn còn ông S là bị đơn trong vụ án.

- Ông Lê Trường S xác định hiện nay ông đang cư trú tại số nhà: Tổ 1, khu phố 2, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Tòa án đã nhiều lần tống đạt giấy triệu tập, thông báo thụ lý cho ông S, ông S nhận được, ông S có lên Tòa án làm việc. Sau đó, ông có đơn xin vắng mặt tại buổi tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, bà M cũng có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B. Căn cứ vào các Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt bà M và ông S. [2]. Về quan hệ hôn nhân:

Bà M và ông Lê Trường S tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện P, tỉnh An Giang vào năm 2015. Quá trình chung sống, cuộc sống hôn nhân thời gian đầu bình thường, sau đó giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp.

Bà M và ông S đã nhiều lần cố gắng khắc phục mâu thuẫn để hàn gắn hạnh phúc nhưng vẫn không có kết quả. Đến nay, nhận thấy tình cảm thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà M làm đơn xin được ly hôn với ông Lê Trường S. Xét yêu cầu ly hôn của bà M là có cơ sở chấp nhận vì theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng trong đời sống chung vợ chồng thì cả bà M và ông S trong quá trình chung sống thường phát sinh mâu thuẫn, việc này cũng được ông S thừa nhận trong bản tự khai cung cấp cho Tòa án. Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ, nhưng bà M vẫn kiên quyết xin ly hôn. Từ đó, nhận thấy, cuộc sống hôn nhân của bà M và ông S không có khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Ngô Thị Trà M được ly hôn với ông Lê Trường S.

[3]. Về con chung: Quá trình chung sống, hai người có 01 con chung là cháu Lê Thị Gia N, sinh ngày 09/05/2016. Ly hôn bà M xin được nuôi dưỡng cháu N. Không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, do cháu N còn nhỏ, cần phải có sự chăm sóc của người mẹ, mặt khác ông S cũng đồng ý giao con cho bà M nuôi dưỡng. Do đó, cần thiết áp dụng các Điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; chấp nhận yêu cầu của bà M, giao cháu N cho bà M trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng; Tạm thời, ông S không phải cấp dưỡng cho con do bà M không yêu cầu.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông S được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về tài sản chung: Bà M và ông S tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Ngô Thị Trà M phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà bà M đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0001796 ngày 28/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B. Bà M đã nộp xong phần án phí HNGĐ sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227; Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Trà M được ly hôn với ông Lê Trường S.

Về con chung: Giao cháu Lê Thị Gia N, sinh ngày 09/05/2016 cho bà Ngô Thị Trà M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời, ông Lê Trường S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì không trực tiếp nuôi con, nên ông S được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu, nên Tòa án không đặt ra để xem xét giải quyết.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Ngô Thị Trà M phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà bà M đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0001796 ngày 28/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B. Bà M đã nộp xong phần án phí HNGĐ sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bà Ngô Thị Trà M và ông Lê Trường S có quyền kháng cáo trong khoảng thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 268/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:268/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;