TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 25/2024/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 04/2024/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2024 về “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2024/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2024/QĐST-DS ngày 06 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hoàng Y, sinh năm 1990 (Có yêu cầu giải quyết vắng mặt) Địa chỉ: 138/100/11 Trần Hưng Đạo, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ.
Địa chỉ liên hệ: Số 182 Nguyễn Thị Minh Khai, phường E, thành phố R, tỉnh Đồng Nai.
Bị đơn: Ông Phạm Thành U, sinh năm 1980 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 395A, khu vực A, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/10/2023 và quá trình giải quyết, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hoàng Y trình bày:
Qua tìm hiểu bà Nguyễn Thị Hoàng Y và ông Phạm Thành U tự nguyện đi đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tờng Thạnh, quận C, thành phố Cần Thơ vào ngày 25/01/2021.
Vợ chồng sống hạnh phúc được hơn 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, vợ chồng Tờng xuyên cự cải, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc, tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, cả hai đã cố hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Bà và ông U đã ly thân từ tháng 12 năm 2022 cho đến nay. Thấy rằng, tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc. Vì vậy, bà Y làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ giải quyết cho bà vấn đề sau:
+ Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị Hoàng Y được ly hôn với ông Phạm Thành U.
+ Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Nguyễn Anh T (nữ); sinh ngày 27/5/2021. Hiện tại cháu T đang sống với bà Y, sau khi ly hôn bà Y yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con đến khi trưởng thành. Bà Y không yêu cầu ông U cấp dưỡng nuôi con.
+ Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
+ Về nợ chung: Không có.
Bị đơn ông Phạm Thành U: Được Tòa án triệu hợp lệ 02 lần nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Vụ án được hòa giải không thành. Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ yêu cầu khởi kiện. Bị đơn tiếp tục vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán, T ký và Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn vắng mặt các lần hòa giải và xét xử, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nhận thấy mâu thuẫn giữa bà Y và ông U đã thật sự nghiêm trọng, đời sống hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Y và ông U tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2021, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tờng Thạnh, quận C, thành phố Cần Thơ vào ngày 25/01/2021 nên xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, bà Y và ông U phát sinh mâu thuẫn, bà Y có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn”. Bị đơn có địa chỉ tại quận C cho nên tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận C theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hoàng Y có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn – ông Phạm Thành U đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt cho nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án (vắng mặt nguyên đơn và bị đơn) theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
3] Xét quan hệ hôn nhân: Bà Y và ông U chung sống năm 2021 và có đăng ký kết hôn vào ngày 25/01/2021 tại Ủy ban nhân dân phường Tờng Thạnh, quận C, thành phố Cần Thơ. Bà Y và ông U sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Tại phiên tòa hôm nay ông U tiếp tục vắng mặt mặc dù ông U đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt cho nên được xem là từ bỏ quyền tranh tụng của mình. Hội đồng xét xử sẽ giải quyết vụ án dựa trên trình bày của bà Y và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo bà Y, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, vợ chồng Tờng xuyên cự cải, tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, cả hai đã cố hàn gắn tình cảm nhưng không thành cho nên bà Y khởi kiện xin ly hôn.
Xét trong quá trình giải quyết vụ án, bà Y xác nhận bà và ông U chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng mặc dù vợ chồng có cố gắn hàn gắn tình cảm nhưng không cải thiện. Do đó, bà và ông U đã ly thân với nhau từ năm 2022 cho đến nay.
Mặt khác, ông U đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hoà giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ giữa bà Y và ông U đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Y theo quy định tại khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[4] Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Nguyễn Anh T (nữ); sinh ngày 27/5/2021. Hiện tại cháu T đang sống với bà Y, sau khi ly hôn bà Y yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con đến khi trưởng thành. Nhằm tạo điều kiện về mặt vật chất và tinh thần cho cháu T tránh làm xáo trộn cuộc sống của cháu. Vì vậy, việc giao cháu T cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là phù hợp quy định pháp luật và cũng đảm bảo cuộc sống cho cháu T. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Y không yêu cầu ông U cấp dưỡng cho nên không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.
Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông U theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.
[5] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác [6] Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.
[7] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
+ Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và T ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Khoản 1 Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Tờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hoàng Y về việc ly hôn với ông Phạm Thành U.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hoàng Y được ly hôn với ông Phạm Thành U.
2. Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Nguyễn Anh T (nữ); sinh ngày 27/5/2021. Giao cháu T cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Ghi nhận bà Y không yêu cầu ông U cấp dưỡng nuôi con.
Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông U theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.
4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Hoàng Y phải chịu 300.000 đồng. Chuyển tiền tạm ứng án phí bà Y đã nộp theo biên lai thu số 0003158 ngày 28/12/2023 của Chi cục thi hành án dân sự, quận C thành án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm phải chịu. Bà Y đã nộp xong án phí.
5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 25/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 25/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về