TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 250/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 324/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 430/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Băng N, sinh năm 1976 (vắng mặt).
Địa chỉ: 36/45/32/14 đường B, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Ông Du, H T (Dư T H), sinh năm 1960 (vắng mặt). Quốc tịch: Canada.
Địa chỉ: Toronto, Ontario, M3K 1E7, Canada.
Các đương sự đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 01/9/2020 và những lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Nguyễn Băng Nhi trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Ông Du, H T (Dư T H) kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 38 ngày 21/3/2016. Sau khi kết hôn, ông Hquay về Canada sinh sống, còn bà vẫn ở lại Việt Nam. Ông H có làm thủ tục bảo lãnh bà sang Canada theo diện đoàn tụ cùng gia đình nhưng trong quá trình làm thủ tục, giữa bà và ông H phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết được dẫn đến việc bảo lãnh không thành. Từ tháng 01/2020 đến nay, bà và ông H đã không còn chung sống, quan tâm, chăm sóc cho nhau. Bà xác nhận hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Không có.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có.
Vì bận việc, bà yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.
Tại bản khai ngày 04/12/2020 (được hợp pháp hóa lãnh sự ngày 15/12/2020 tại Đại sứ quán Việt Nam tại Canada), bị đơn là ông Ông Du, H T (Dư T H) xác nhận lời trình bày của bà N về thời điểm kết hôn, về mâu thuẫn chung của vợ chồng, về con chung, tài sản chung và nợ chung là đúng. Nay bà N xin ly hôn, ông đồng ý được ly hôn với bà N. Do bận việc, ông yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy bà Nguyễn Băng N và ông Ông Du, H T (Dư T H) kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Bị đơn hiện cư trú tại Canada nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:
Nguyên đơn và bị đơn có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[3] Xét yêu cầu của bà Nguyễn Băng N được ly hôn ông Ông Du, H T (Dư T H), Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà N và ông H, thì thực tế sau khi kết hôn hai bên phát sinh mâu thuẫn không thể giải quyết được. Từ khi kết hôn cho đến nay, bà N và ông H không có quá trình chung sống lâu dài, do xa cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Hiện nay bà N và ông H đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà N yêu cầu được ly hôn với ông H là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về con chung: Không có.
[5] Về tài sản chung, nợ chung và nghĩa vụ dân sự chung: Không có.
[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Nguyễn Băng N chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 121 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Băng N.
1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Băng N được ly hôn với ông Ông Du, H T (Dư T H).
Giấy chứng nhận kết hôn số 38 do Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/3/2016 cho bà Nguyễn Băng N và ông Ông Du, H T (Dư T H) không còn giá trị pháp lý.
1.2. Về con chung: Không có.
1.3. Về tài sản chung, nợ chung và nghĩa vụ dân sự chung: Không có.
2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Nguyễn Băng N chịu và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà N đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2019/0092686 ngày 29/9/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N đã nộp đủ tiền án phí.
3. Bà Nguyễn Băng N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông Ông Du, H T (Dư T H) được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
Bản án về tranh chấp ly hôn số 250/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 250/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về