Bản án về tranh chấp ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Hôm nay, ngày 09/5/2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2022/TLST - HNGĐ ngày 04/1/2022 về việc tranh chấp “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXX - ST ngày 05/4/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thúy D, sinh năm 1994 Địa chỉ: Số nhà A, đường H, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1987 Địa chỉ: Số nhà C, đường T, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của bà Phạm Thúy D thì bà D và ông Nguyễn Hữu Q, kết hôn và có đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại UBND phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống với nhau được khoảng 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuân là do vợ chồng bất đồng với nhau về quan điểm sống, cách làm kinh tế. Ông Q không lo làm ăn mà ham chơi bời, nợ ngày càng nhiều, phải bán hết nhà đất để trả nợ. Nay vợ chồng đã sống ly thân nhau mạnh ai người đó sống. Nay tình cảm vợ chồng giữa bà D và ông Q không còn, bà D đề nghị Tòa án cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Hữu Q.

Bị đơn ông Nguyễn Hữu Q: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án ly hôn, Tòa án triệu tập nhiều lần ông Q không đến tòa để làm việc, Tòa án cùng đại diện chính quyền địa phương đến nhà để lấy lời khai thì ông Q tránh mặt, không hợp tác, không lấy được lời khai của ông Q.

+ Về con chung: Bà D khai vợ chồng có 02 con chung tên là Nguyễn Quang K, sinh ngày 27/9/2014; Nguyễn Ngọc Kh, sinh ngày 13/9/2020. Bà D yêu cầu xin nuôi cả 02 con, bà D có khả năng nuôi con và không yêu cầu ông Q cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Bà D khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về pháp luật tố tụng: Bà Phạm Thúy D và ông Nguyễn Hữu Q, kết hôn và có đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại UBND phường L, thành phố B. Nay bà D xin ly hôn mà ông Q hiện đang cư trú tại phường L, TP. B. Do đó quan hệ tranh chấp là “ ly hôn ” được quy định tại Điều 28, 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

[2].Về pháp luật nội dung: Bà Phạm Thúy D và ông Nguyễn Hữu Q, kết hôn và có đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại UBND phường L, thành phố B. Nay bà D xin ly hôn mà ông Q đang cư trú tại phường L, TP. B, quan hệ tranh chấp được xác định là “ ly hôn, tranh chấp về nuôi con ”. Xét thấy nội dung vụ án ly hôn và tranh chấp về nuôi con này phù hợp với các quy định tại các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, do đó căn cứ luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.

Ông Q được Tòa án đã triệu tập để xét xử hợp lệ hai lần nhưng ông Q vẫn vắng mặt, bà D thì có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 227 khoản 1, 2 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt ông Q và bà D theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát thành phố B phát biểu quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, của hội đồng xét xử; xác định mối quan hệ tranh chấp đều đúng pháp luật. Về nội dung vụ án đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Phạm Thúy D và cho bà D được ly hôn với ông Nguyễn Hữu Q. Đề nghị giao 02 con chung tên là Nguyễn Quang K, sinh ngày 27/9/2014; Nguyễn Ngọc Kh, sinh ngày 13/9/2020 cho bà D nuôi. Bà D có khả năng nuôi con và không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nên không xét.

[3]. Từ những tài liệu và chứng cứ nêu trên, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định và Kết luận:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thúy D và ông Nguyễn Hữu Q chung sống với nhau và có làm đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại UBND phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng là hôn nhân hoàn toàn tự nguyện đúng pháp luật. Trong quá trình chung sống do tính tình đôi bên không hợp nhau, vợ chồng bất đồng với nhau về quan điểm sống, cách làm kinh tế. Ông Q thiếu trách nhiệm với vợ con. Đến năm 2021 thì vợ chồng sống ly thân nhau cho đến nay, mạnh ai người đó sống. Khi Tòa án mời làm việc, hòa giải thì ông Q cố tình không đến, không hợp tác, Tòa án đến nhà nhiều lần không lấy được lời khai của ông Q, ông Q cố tình gây rất nhiều khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thuyết phục bà D trở về đoàn tụ với ông Q nhiều lần, nhưng bà D vẫn kiên quyết xin được ly hôn.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà D và ông Q kéo dài nhiều năm qua không khắc phục được.Tình cảm vợ chồng mà bà D dành cho ông Q là không còn và rất trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được kết quả hạnh phúc. Do đó căn cứ Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình xử chấp nhận đơn xin ly hôn của bà D và cho bà D được ly hôn với ông Q là có cơ sở và đúng pháp luật.

- Về con chung: Bà D và ông Q có 02 con chung tên là Nguyễn Quang K, sinh ngày 27/9/2014; Nguyễn Ngọc Kh, sinh ngày 13/9/2020. Hiện nay 01 cháu có nguyện vọng xin được ở với mẹ và 01 cháu sinh năm 2020 còn nhỏ. Xét lợi ích về mọi mặt của con chưa thành niên, xét yêu cầu nuôi con của bà D. Do đó căn cứ Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình, xử giao 02 con chung cho bà D nuôi. Bà D có khả năng nuôi con và không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nên không xem xét.

-Về tài sản chung, nợ chung: Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa không xem xét.

[4].Về án phí: Bà D phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, 35, 147 k4, 227 khoản 1, 2, 273 k1 Bộ luật Tố tụng Dân Sự;

- Căn cứ khoản 1 Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội qui định về án phí dân sự.

1/ Xử chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Phạm Thúy D và cho bà D và ông Nguyễn Hữu Q được ly hôn với nhau.

2/ Về con chung: Xử giao 02 con chung tên là Nguyễn Quang K, sinh ngày 27/9/2014; Nguyễn Ngọc Kh, sinh ngày 13/9/2020 cho bà D nuôi. Bà D có khả năng nuôi con và không yêu cầu ông Q cấp dưỡng.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, thay đổi việc nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo qui định của luật hôn nhân và gia đình.

3/ Về án phí: Bà Phạm Thúy D phải chịu án phí ly hôn là 300.000đ, nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí trước đây là 300.000đ tại biên lai số 0004766 ngày 04/01/2022 của chi cục Thi hành án dân sự TP. Bảo Lộc. Bà D đã nộp đủ án phí DSST.

4/ Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Đối với đương sự vắng mặt kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản sao bản án tại UBND xã, phường nơi người đó cư trú theo quy định của luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự. Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại các điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;