Bản án về tranh chấp ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH PHÚ YÊN 

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 24 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 173/2021/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/4/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1974 Trú ở: Thôn N, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1975 Trú ở: Thôn N, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện do bà Lê Thị H viết ngày 28/9/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà H trình bày: Vào năm 2004, bà H và ông Nguyễn Văn T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện P. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống bình thường, tuy nhiên sau đó vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn lý do ông T thường xuyên uống rượu về hay cãi vã và đánh đập bà H, hơn nữa ông T ngoại tình với người phụ nữ khác nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Cách đây 01 năm ông T bỏ đi làm ăn xa, mạnh ai nấy mạnh không ai còn quan tâm đến ai, nhiều lần bà H gọi điện thoại bảo ông T về giải quyết chuyện gia đình nhưng ông T không chịu về. Nay bà H không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Bảo Y, sinh ngày 12/10/2013, hiện nay đang ở với bà H. Ly hôn bà H xin được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa, bà H yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ, thời gian cấp dưỡng từ tháng 6/2022.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Theo biên bản ghi lời trình bày của Tòa án nhân dân huyện P ngày 08/4/2022 bà Nguyễn Thị K là mẹ ruột ông T trình bày: Vợ chồng H và T đang làm thủ tục ly hôn nhưng không biết lý do gì, nhiều lần Tòa án có gửi giấy triệu tập ông T để đến Tòa giải quyết nhưng ông T đang đi làm ăn xa không về được. Vợ chồng H, T có một con chung, còn có tài sản chung hay nợ gì thì bà K không biết.

Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án nhân dân huyện P tống đạt tập hợp lệ các văn bản tố tụng để hòa giải và xét xử nhưng ông T vắng mặt nên căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự để tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nêu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn, cho nguyên đơn bà Lê Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Văn T; Về con chung: giao con chung Nguyễn Bảo Y, sinh ngày 12/10/2013 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, bà H yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ, thời hạn cấp dưỡng từ tháng 6/2022 nên đề nghị Tòa chấp nhận; Về tài sản chung, bà H không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Tòa không xét. Về án phí các đương sự phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H và ông Nguyễn Văn T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau, được Uỷ ban nhân dân xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2004 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Tại phiên tòa, bà Hồng vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với lý do vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, hay cãi vã và không ai còn quan tâm đến ai. Quá trình giải quyết vụ án, ông Trang đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt. Qua xác minh bà Nguyễn Thị K là mẹ ruột ông T có nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho ông T nhưng ông T đang đi làm ăn xa nên không đến Tòa giải quyết. Xét thấy, hôn nhân giữa bà H và ông T không còn hạnh phúc, mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, cho bà H được ly hôn với ông T.

[3] Về con chung: Vợ chồng bà Lê Thị H và ông Nguyễn Văn T có 01 con chung là Nguyễn Bảo Y, sinh ngày 12/10/2013, hiện nay đang ở với bà H. Tại phiên tòa, bà H xin được trực tiếp nuôi con. Xét thấy, hiện nay cháu Yên có nguyện vọng xin ở với mẹ, đồng thời để đảm bảo sự phát triển ổn định cuộc sống như lâu nay của con nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin nuôi con của bà H, giao con chung cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

[4] Về cấp dưỡng: Bà Lê Thị H yêu cầu ông T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con Nguyễn Bảo Y mỗi tháng 1.000.000đ, thời hạn cấp dưỡng từ tháng 6/2022. Xét thấy, ông T có khả năng lao động và có thu nhập, bà H yêu cầu ông T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về tài sản chung: Bà Lê Thị H không yêu cầu Tòa giải quyết nên Tòa không xét.

[6] Về án phí: Bà Lê Thị H phải chịu 300.000đ án phí HNGĐ-ST, ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000đ án phí DSST (Phần cấp dưỡng nuôi con).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn, cho bà Lê Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

Về con chung: Giao con Nguyễn Bảo Y, sinh ngày 12/10/2013 cho bà Lê Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (Phù hợp với nguyện vọng của cháu Y là ở với mẹ).

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con Nguyễn Bảo Y mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng), thời hạn cấp dưỡng từ tháng 6/2022 cho đến khi phát sinh một trong các trường hợp quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở Về tài sản chung: Bà Lê Thị H không yêu cầu giải quyết nên Tòa không xét.

Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí Tòa án.

Bà Lê Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí HNGĐ-ST. Bà Hồng đã nộp đủ 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004190 ngày 02/11/2021 của cơ quan Chi cục Thi hành án Dân sự huyện P, Phú Yên.

Ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST (phần cấp dưỡng nuôi con).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Hoà - Phú Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;