Bản án về tranh chấp ly hôn số 214/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LX, TỈNH AG

BẢN ÁN 214/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố LX, tỉnh AG xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 299/2021/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 412/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 424/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Hồng N, sinh năm 1991 Địa chỉ: ấp A, thị trấn H, huyện MT, tỉnh ST (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Trình Minh T, sinh năm 1985 Địa chỉ: ấp 1, xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản khai cùng ngày 26 tháng 04 năm 2021, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị Hồng N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân và gia đình: Bà Phạm Thị Hồng N và ông Trình Minh T tự nguyện quen biết, tìm hiểu tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận số 112, ngày 07/08/2014 do Ủy ban nhân dân xã M, thành phố LX, tỉnh AG cấp cho ông Trình Minh T và bà Phạm Thị Hồng N, chứng nhận ông bà là vợ chồng hợp pháp theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung với nhau rất hạnh phúc nhưng về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, ông T không quan chăm sóc vợ con. Nay, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục xây dựng gia đình hạnh phúc nên bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

Về quan hệ con chung: Trong thời gian sống chung vợ chồng giữa bà N và ông T có một con chung tên Trình Hạo N, sinh ngày 26/01/2017. Hiện nay, cháu N đang sống chung với bà N nên bà yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ nợ chung, tài sản chung: Bà N yêu cầu được tự thỏa thuận với ông T nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, hai bên nếu có tranh chấp sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.

Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, ông Trình Minh T vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa:

Bà Phạm Thị Hồng N yêu cầu ly hôn với ông Trình Minh T, về con chung tên Trình Hạo N bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Trong thời gian sống ly thân nhiều năm, con chung được bà N nuôi dưỡng tốt, có nơi ở và học tập ổn định, bản thân bà N có việc làm và thu nhập đủ nuôi sống bản thân và chăm lo cho con chung. Về tài sản và nợ chung giữa các bên sẽ thỏa thuận giải quyết nếu ông T có tranh chấp. Ông T vắng mặt không có lý do, không đề nghị xét xử vắng mặt.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố LX:

Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố LX thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách đương sự, quan hệ pháp luật tranh chấp. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm như: Nguyên tắc xét xử, thư ký phiên tòa, sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa. Bị đơn ông T vắng mặt không đến Tòa án giải quyết là không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của ông và phải chịu hậu quả theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân và gia đình: Năm 2014, bà N và ông T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đây là hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục xây dựng gia đình hạnh phúc lâu dài được nữa, nên bà N làm đơn khởi kiện xin được ly hôn với ông T. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải để hàn gắn quan hệ hôn nhân của bà N, ông T nhưng ông T vẫn vắng mặt, không có ý kiến trình bày, bà N vẫn cương quyết ly hôn, xin vắng mặt tại các phiên hòa giải. Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà N, ông T đã đi đến trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà N là có cơ sở để chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về con chung: Có 01 con chung chưa thành niên tên Trình Hạo N, sinh ngày 26/01/2017, hiện đang sống cùng với bà N. Nhận thấy, con chung đang sinh sống cùng với bà N, do đó để đảm bảo ổn định về tinh thần và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung nên chấp nhận giao cháu N cho bà N được chăm sóc, nuôi dưỡng quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con chung bà N không yêu cầu nên không xét đến. Về tài sản chung, nợ chung các đương sự tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu giải quyết nên không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố LX, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà N và ông T có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận số 112, ngày 07/08/2014 do Ủy ban nhân dân xã M, thành phố LX, tỉnh AG cấp mang tên bà N và ông T; bà N khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông T và ông T đang cư trú tại xã M, thành phố LX, tỉnh AG. Do đó, căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa bà N và ông T là “tranh chấp ly hôn” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố LX, tỉnh AG là phù hợp quy định pháp luật.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành tống đạt và niêm yết công khai các văn bản tố tụng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Trình Minh T không đến Tòa và vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông T.

[3] Hội đồng xét xử nhận định về nội dung vụ án: Bà Phạm Thị Hồng N và ông Trình Minh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện của cả hai, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, thành phố LX, tỉnh AG theo Giấy chứng nhận kết hôn số 112 ngày 07/08/2014, được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Nay, bà N và ông T phát sinh mâu thuẫn, bà N xin ly hôn nên Tòa án thụ lý giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, do ông T không quan tâm chăm sóc vợ con, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, bà N luôn tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng, hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T.

[5] Xét, hôn nhân giữa bà N và ông T mâu thuẫn phát sinh ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Hiện nay, bà N không còn tình cảm với ông T, không yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ khó khăn trong cuộc sống và chăm lo hạnh phúc gia đình, chăm lo con cái. Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, ông T vắng mặt, không trình ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà N tức là ông đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của ông đã được pháp luật quy định nên không có căn cứ xét yêu cầu của ông T.

Do đó, chấp nhận yêu cầu của bà N được ly hôn với ông T.

[6] Về quan hệ con chung: Trong thời gian sống chung vợ chồng có một con chung tên Trình Hạo N, sinh ngày 26/01/2017 (N). Hiện nay, con chung đang sống ổn định với bà N, được bà N chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt. Ông T không có ý kiến tranh chấp nuôi con chung. Do đó, xét cần thiết phải giao con chung tên Trình Hạo N cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng, bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét, nếu có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con chung sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án khác (nếu có).

[7] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà N yêu cầu được tự thỏa thuận với ông T nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông T cũng không có ý kiến cung cấp cho Tòa án về vấn đề này. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bà N nộp tiền án phí theo quy định pháp luật. Ông T không nộp án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, Điều 19, Khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 179; Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Điều 233, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Điều 2, Điều 6, Điều 7, Điều 9, Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hồng N được ly hôn với ông Trình Minh T.

Về quan hệ con chung: Bà Phạm Thị Hồng N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Trình Hạo N, sinh ngày 26/01/2017 (N). Ông T không cấp dưỡng nuôi con chung do bà N không yêu cầu. Bà N phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông T được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Việc nuôi con chung không cố định.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị Hồng N và ông Trình Minh T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Phạm Thị Hồng N nộp số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), trừ vào 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 002773 ngày 26 tháng 04 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố LX, tỉnh AG.

Bà Phạm Thị Hồng N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Trình Minh T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú của ông T.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 214/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:214/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;