Bản án về tranh chấp ly hôn số 21/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 35/2022/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 217/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2022/QĐST-DS ngày 29 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lê Nguyễn Hồng T, sinh năm 1995 (Có yêu cầu giải quyết vắng mặt) Địa chỉ: ấp 4, xã Đ, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1987 (Vắng mặt). Địa chỉ: khu vực T, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/02/2022 và quá trình giải quyết, nguyên đơn bà Lê Nguyễn Hồng T trình bày:

Qua tìm hiểu chúng tôi tự nguyện đi đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phú Thứ, quận C, thành phố Cần Thơ vào ngày 18/4/2018.

Chúng tôi sống hạnh phúc được gần 3 năm thì P sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, chồng tôi không lo cho gia đình, chúng tôi thường xuyên cự cải, cả hai đã cố hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Chúng tôi đã ly thân từ tháng 6 năm 2021 cho đến nay. Vì vậy, tôi làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ giải quyết cho tôi vấn đề sau:

+ Về quan hệ hôn nhân: Cho tôi được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

+ Về con chung: Chúng tôi có 02 con chung tên Nguyễn Kim X (nữ); sinh ngày 30/8/2018 và cháu Nguyễn Gia P (nam); sinh ngày 05/5/2021. Cháu X và cháu P hiện tại đang sống với tôi. Sau khi ly hôn tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con đến trưởng thành. Không yêu cầu chồng tôi cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Nguyễn Văn T: Được Tòa án triệu hợp lệ 02 lần nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ yêu cầu khởi kiện. Bị đơn tiếp tục vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C P biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn vắng mặt các lần hòa giải và xét xử, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nhận thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông T đã thật sự nghiêm trọng, đời sống hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Lê Nguyễn Hồng T và ông Nguyễn Văn T tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phú Thứ, quận C, thành phố Cần Thơ vào ngày 18/4/2018 nên xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, bà T và ông T P sinh mâu thuẫn, bà T có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn”. Bị đơn có địa chỉ tại quận C cho nên tranh chấp này Tộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận C theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Lê Nguyễn Hồng T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn – ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt cho nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án (vắng mặt nguyên đơn và bị đơn) theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Bà T và ông T chung sống năm 2018 và có đăng ký kết hôn vào ngày 18/4/2018 tại Ủy ban nhân dân phường Phú Thứ, quận C, thành phố Cần Thơ. Bà T và ông T sống hạnh phúc một thời gian thì P sinh mâu thuẫn. Tại phiên tòa hôm nay ông T tiếp tục vắng mặt mặc dù ông T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt cho nên được xem là từ bỏ quyền tranh tụng của mình. Hội đồng xét xử sẽ giải quyết vụ án dựa trên trình bày của bà T và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo bà T, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, ông T không lo cho gia đình, vợ chồng thường xuyên cự cải cho nên bà xin ly hôn.

Xét trong quá trình giải quyết vụ án, bà T xác nhận bà và ông T chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng mặc dù vợ chồng có cố gắn hàn gắn tình cảm nhưng không cải thiện. Do đó, bà và ông T đã ly thân với nhau từ tháng 6 năm 2021 cho đến nay.

Mặt khác, ông T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hoà giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ giữa bà T và ông T đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T theo quy định tại khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Có hai con chung tên Nguyễn Kim X (nữ); sinh ngày 30/8/2018 và cháu Nguyễn Gia P (nam); sinh ngày 05/5/2021. Cháu X và cháu P hiện tại đang sống với bà T. Sau khi ly hôn bà T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con đến trưởng thành. Nhằm tạo điều kiện về mặt vật chất và tinh thần cho cháu X và cháu P tránh làm xáo trộn cuộc sống của hai cháu. Vì vậy, việc giao cháu X và cháu P cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là phù hợp quy định pháp luật và cũng đảm bảo cuộc sống cho cháu X và cháu P. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng cho nên không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông T theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn bà Lê Nguyễn Hồng T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

+ Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:  Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Nguyễn Hồng T về việc ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Nguyễn Hồng T được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Kim X (nữ); sinh ngày 30/8/2018 và cháu Nguyễn Gia P (nam); sinh ngày 05/5/2021. Hiện tại cháu X và cháu P đang sống với bà T. Giao cháu X và cháu P cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Ghi nhận bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông T theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê Nguyễn Hồng T chịu 300.000 đồng. Chuyển tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp, theo biên lai T số 0008257 ngày 28/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự, quận C thành án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm phải chịu. Bà T đã nộp xong án phí.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 21/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;