Bản án về tranh chấp ly hôn số 21/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXX-ST ngày 02 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Văn Thị Kiều T - sinh năm: 1991 – Hộ khẩu thường trú: 29 T, tổ 5 phường M, quận S, Đà Nẵng. vắng mặt

- Bị đơn: Ông Đặng Trường S – sinh năm: 1989 – HKTT: tổ 51 phường T, quận S, Thành phố Đà Nẵng. Hiện đang chấp hành án tại Đội 7-K1, Trại Giam A – Bộ Công An. vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/4/2021 và bản tự khai ngày 27/4/2021 nguyên đơn bà Văn Thị Kiều T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông S kết hôn vào năm 2010, hôn nhân tự nguyện, đăng ký tại UBND phường T, quận S, Đà Nẵng theo giấy chứng nhận số 102 ngày 28/05/2010. Sau khi kết hôn ông bà sống tại 69 Y, tổ 51 phường T, quận S, Thành phố Đà Nẵng. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông S không lo làm ăn, tụ tập bạn bè chơi bời, không có sự chia sẻ công việc gia đình và kinh tế cùng vợ. Năm 2011 bà đã nộp đơn đến Tòa án nhân dân quận S, Đà Nẵng xin ly hôn nhưng không được chấp nhận, sau đó mâu thuẫn gia đình vẫn không được cải thiện, ông S vẫn chứng nào tật nấy, thiếu trách nhiệm với gia đình, năm 2012 vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Năm 2018, ông S bị bắt và hiện đang chấp hành án tại Trại giam A về tội phạm ma túy. Nay về tình cảm bà T xác nhận không còn yêu thương ông S nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông S .

- Về quan hệ con chung: bà T xác định có 01 con chung là: Đặng Anh P– sinh ngày: 08/01/2010. Ly hôn nguyện vọng của bà T được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: bà T xác định không có.

- Bị đơn, ông Đặng Trường S do hiện đang chấp hành án tại Trại giam A – Bộ Công an, có đơn xin xét xử vắng mặt có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau: Ông S thống nhất về thời gian và điều kiện kết hôn như bà T trình bày. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình và quan điểm sống không hợp, hôn nhân không hạnh phúc mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng không đem lại kết quả. Nay ông S đồng ý ly hôn với bà T.

- Về con chung: ông S xác định có 01 con chung: Đặng Anh P – sinh ngày:

08/01/2010. Ông S đồng ý giao con cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng và ông không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: ông S xác định không có Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S phát biểu về sự tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của các đương sự.

Về nội dung: đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình.

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Văn Thị Kiều T về việc ly hôn với ông Đặng Trường S.

Về con chung: Giao con Đặng Anh P – sinh ngày: 08/01/2010 cho bà Văn Thị Kiều T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Ông Đặng Trường S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Tòa án nhân dân quận S đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa nhưng tại phiên tòa hôm nay bà T, ông S có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự 2015, Tòa án tiến hành xét vử vắng mặt họ.

Về nội dung vụ án:

[2] bà Văn Thị Kiều T xây dựng gia đình với ông Đặng Trường S vào năm 2014, hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận kết hôn số 102 quyền số 01 ngày 28/5/2010. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[3] Sau khi kết hôn ông bà về sống tại tổ 51 phường T, quận S, Tp Đà Nẵng. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông S không lo làm ăn, tụ tập chơi bời với bạn bè và dính vào ma túy.

Năm 2011 bà T đã nộp đơn xin ly hôn nhưng không được chấp nhận. Tuy nhiên, sau khi về chung sống ông S vẫn chứng nào tật nấy, không có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng không có tiếng nói chung. Năm 2012 hai bên sống ly thân từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Năm 2018 ông S bị bắt và hiện đang chấp hành án tại Trại giam A. Nay bà T xác định không còn yêu thương ông S nữa nên xin được ly hôn. Còn bị đơn ông S thống nhất ly hôn với bà T.

[4]Xét yêu cầu xin ly hôn của bà T thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thật sự có được dựa trên sự yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thế nhưng bà T, ông S lại không làm được điều này. Từ khi kết hôn năm 2010 đến nay cả hai chỉ chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn xảy ra các bên đều không có giải pháp gì để hàn gắn và xây dựng lại gia đình. Năm 2011, Tòa án nhân dân quận S không chấp nhận yêu cầu giải quyết ly hôn của bà T để cả hai về đoàn tụ gia đình nhưng sau đó tình trạng vẫn không cải thiện, hai bên sống sống ly thân nhau từ 2013 đến nay. Mặt khác tình trạng hôn nhân bà T trình bày cũng phù hợp với các thông tin mà chính quyền địa phương cung cấp. Hiện tại, ông S, bà T đều xác định không còn tình cảm với nhau và đề nghị giải quyết cho ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn của bà T, ông S đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy HĐXX xét thấy có đủ cơ sở chấp nhận cho bà T được ly hôn ông S theo quy định tại điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Bà T, ông S xác định có 01 con chung Đặng Anh P – sinh ngày: 08/01/2010. Bà T, ông S thống nhất giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử xét thấy: yêu cầu của các bên đương sự là hoàn toàn tự nguyện, đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con cả về thể chất lẫn tinh thần, phù hợp với tình hình thực tế của các bên và nguyện vọng của cháu P cũng như quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

[6] Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: bà Văn Thị Kiều T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T và ông S xác định không có nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[8]Đối với ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng thấy phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[9] Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đồng bà T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của bà Văn Thị Kiều T đối với ông Đặng Trường S.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Văn Thị Kiều T được ly hôn với ông Đặng Trường S (Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của Văn Thị Kiều T đối với ông Đặng Trường S nên giấy chứng nhận kết hôn hôn số 102 do UBND phường T, quận S, TP Đà Nẵng cấp ngày 28/5/2010 không còn giá trị pháp lý)

2. Về con chung: Giao con Đặng Anh P – sinh ngày: 08/01/2010 cho bà Văn Thị Kiều T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Ông Đặng Trường S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Cả hai bên đương sự đều được thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên đương sự có quyền xin thay đổi người nuôi con hoặc yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không có đề cập đến

4. Về án phí: Án phí HNGĐ sơ thẩm 300.000đồng bà Văn Thị Kiều T phải chịu. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, TP. Đà Nẵng biên lai thu số 0006665 ngày 16 tháng 4 năm 2021.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết tại nơi thường trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 21/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;