Bản án về tranh chấp ly hôn số 209/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 209/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 1395/2022/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1395/2022/QĐXX-ST ngày 23/6/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Xuân H, sinh năm 1994. Địa chỉ: Xóm H, xã Q, huyện Q1, tỉnh Nghệ An.

- Bị đơn: Bà Lương Thị T, sinh năm 1992.

HKTT: khu phố B, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Tạm trú: tổ 23, khu phố V, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(ông H, bà T có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn ông Trần Xuân H trình bày: Ông và bà Lương Thị T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q1, tỉnh Nghệ An. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì thường xuyên xảy ra mâu thuẫn về tình cảm do quan điểm sống không đồng nhất. Hai vợ chồng thường xuyên cãi vã dẫn đến xung đột. Xét mâu thuẫn vợ chồng ngày càng nghiêm trọng, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông H xin ly hôn.

Về con chung: có 01 cháu tên Trần Xuân K, sinh ngày 04/5/2015. Ly hôn, ông H đồng ý giao con chung cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông H cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/tháng đến khi con trưởng thành và có khả năng lao động.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

- Tại bản tự khai, bị đơn bà Lương Thị T trình bày:

Bà và ông Trần Xuân H kết hôn năm 2014, hôn nhận tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q1, tỉnh Nghệ An. Hai vợ chồng chung sống có phát sinh mâu thuẫn là do ông H không chịu làm ăn và không chăm sóc gia đình. Bà và ông H đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Nay tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông H xin ly hôn thì bà đồng ý.

Về con chung: có 01 cháu tên Trần Xuân K, sinh ngày 04/5/2015. Ly hôn, bà T đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/tháng đến khi con trưởng thành và có khả năng lao động.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

* Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa:

Đề nghị Tòa án xác minh thu thập các tài liệu chứng cứ sau:

- Yêu cầu nguyên đơn làm lại đơn xin vắng mặt đúng hình thức, lập biên bản giao nhận đơn xin vắng mặt và bản tự khai của nguyên đơn theo đúng quy định.

- Tống đạt lại thông báo thụ lý, thông báo mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cho nguyên đơn. Tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải lại, tống đạt kết quả công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự.

- Xác minh tình trạng mâu thuẫn vợ chồng theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Thu thập chứng cứ là bản sao CMND của bị đơn để xác định thẩm quyền của Tòa án.

Về việc giải quyết vụ án: Do yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ nên đại diện Viện kiểm sát không phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Trần Xuân H, bà Lương Thị T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm a khoản 1 điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H, bà T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Xuân H và bà Lương Thị T tự nguyện tìm hiểu, sống chung với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q1, tỉnh Nghệ An. Căn cứ các điều 9, 10, 11, 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 xác định quan hệ hôn nhân của ông H, bà T là hợp pháp. Nay ông H xin ly hôn, Tòa án căn cứ vào Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3] Về yêu cầu xin ly hôn của ông H: Ông H xin ly hôn với bà T với lý do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xung đột. Bà T cũng trình bày hai vợ chồng chung sống có phát sinh mâu thuẫn và hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Ông H, bà T đều nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự: đối với vụ án hôn nhân gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Tòa án phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Xét thấy, ông H, bà T quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nội dung này cả ông H, bà T đều thừa nhận nên thuộc tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án đã thu thập tài liệu, chứng cứ là lời khai của các đương sự về nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp, theo đó, ông H khai nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do quan điểm sống không đồng nhất, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn về vấn đề tình cảm, bà T khai nguyên nhân mâu thuẫn là do ông H không làm ăn, không chăm sóc gia đình. Ông H, bà T đều xác định tình cảm không còn, không thể tiếp tục chung sống nên yêu cầu xin ly hôn của ông H có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: có 01 con chung là cháu Trần Xuân K, sinh ngày 04/5/2015, hiện tại đang sống với bà T. Ly hôn ông H đồng ý giao con chung cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông H cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/tháng đến khi con trưởng thành và có khả năng lao động. Bà T cũng có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/tháng đến khi con trưởng thành và có khả năng lao động. Nhận thấy, yêu cầu của ông H, bà T phù hợp với ý kiến của cháu K về việc được ở với bà T. Do đó, yêu cầu của ông H về việc giao con chung cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông H cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/tháng là có cơ sở chấp nhận.

[5] Về tài sản chung: ông H khai tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Bà T khai không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[6] Về nợ chung: Ông H, bà T khai không có, không yêu cầu giải quyết.

[7] Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Ông H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con.

[8] Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, HĐXX nhận thấy:

- Về việc hướng dẫn đương sự làm lại đơn xin vắng mặt: Đơn xin vắng mặt của ông H (BL 18) đã có xác nhận nội dung: ông H có hộ khẩu tại xóm 2 xã Q, huyện Q1, tỉnh Nghệ An, là người ký trực tiếp vào đơn; có xác nhận của chính quyền địa phương là phù hợp với quy định pháp luật nên không chấp nhận yêu cầu của đại diện Viện kiểm sát.

- Về việc tống đạt thông báo thụ lý và thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ: Ngày 16/5/2022, Tòa án ban hành thông báo thụ lý và gửi cho các đương sự. Nguyên đơn sau khi nhận được thông báo thụ lý đã có bản tự khai trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án. Ngày 10/6/2022, Tòa án có thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải gửi cho các đương sự. Do nguyên đơn có đơn xin vắng mặt nên Tòa án lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đối với bị đơn và đã thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho nguyên đơn, gửi thông báo theo quy định pháp luật. Nguyên đơn không thắc mắc, khiếu nại về việc tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án. Do đó, không chấp nhận yêu cầu của đại diện Viện kiểm sát về việc tống đạt lại thông báo thụ lý, thông báo về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hòa giải, công khai chứng cứ lại cho các bên đương sự.

- Về yêu cầu xác minh tình trạng mâu thuẫn vợ chồng theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự không phù hợp với nhận định của HĐXX nên không chấp nhận.

- Về yêu cầu thu thập bản sao CMND của bị đơn để xác định thẩm quyền của Tòa án: Tại các bản tự khai và đơn xin vắng mặt của bị đơn (BL 24-26), bị đơn khai có hộ khẩu thường trú tại số khu phố B, phường L, thành phố B; tạm trú tại số tổ 23, khu phố V, phường P, thành phố B đã đủ căn cứ để xác định nơi bị đơn cư trú và thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa. Do đó không chấp nhận yêu cầu của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điều 203, điều 235, điểm a, b khoản 1 điều 238, 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Áp dụng Điều 9, 10, 11, 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; điều 51, 53, 54, 56, 57, 81, 82, 83, 84, 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

1. Tuyên xử: Chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của ông Trần Xuân H. Ông Trần Xuân H được ly hôn với bà Lương Thị T.

2. Về con chung: Có 01 cháu tên Trần Xuân K, sinh ngày 04/5/2015. Ly hôn, giao con chung cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông H cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/tháng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con trưởng thành và có khả năng lao động.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông H được quyền đi lại thăm con không ai cản trở. Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết ông bà được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Xuân H phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 02626 ngày 10/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Ông H còn phải nộp 300.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thanh toán theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 209/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:209/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;