Bản án về tranh chấp ly hôn số 205/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 205/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 366/2021/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 390/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 395/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bé H, sinh năm 1982 (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Địa chỉ: ấp Mỹ An 2, xã  M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; Chỗ ở hiện nay: số 533 tổ 13, ấp An Bình, xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Đinh Văn R, sinh năm: 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp Mỹ An 2, xã  M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông Rớt do tự quen biết, tìm hiểu và tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2002, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ Bình, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang vào ngày 09 tháng 12 năm 2005, đây là hôn nhân lần thứ nhất của cả hai. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên Bà H yêu cầu ly hôn với ông Rớt.

Về con chung: có 02 con chung tên Đinh Văn Quí, sinh ngày: 10/3/2002 (đã trưởng thành) và Đinh Văn Trọng, sinh ngày: 10/5/2014. Sau khi ly hôn, đối với cháu Quí đã trưởng thành, không có yêu cầu; đối với cháu Trọng, Bà H yêu cầu trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trọng và không yêu cầu ông Rớt cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Đinh Văn R không có văn bản trình bày ý kiến, không tham dự các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ và hòa giải; cũng như không tham dự phiên tòa do Tòa án triệu tập.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án;

- Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự và còn phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định pháp luật.

Về nội dung vụ án: Nguyên đơn, bị đơn tự nguyện tiến đến hôn nhân và đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn là có cơ sở theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận; Về con chung: có 02 con chung, tên Đinh Văn Quí, sinh ngày: 10/3/2002 (đã trưởng thành) và Đinh Văn Trọng, sinh ngày: 10/5/2014. Sau khi ly hôn Bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Trọng và không yêu cầu ông Rớt cấp dưỡng nuôi con chung. Để đảm bảo ổn định về tinh thần và quyền lợi về mọi mặt cho con chung nên đề nghị chấp nhận cho nguyên đơn được nuôi con chung theo quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Đối với cấp dưỡng, tài sản chung, nợ chung do nguyên đơn không cầu giải quyết nên đề nghị không xét đến.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé H có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; bị đơn ông Đinh Văn R được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không tham gia phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Bé H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Đinh Văn R. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý là đúng thẩm quyền.

[2] Tại biên bản xác minh tình trạng cư trú, Công an xã  M, thành phố Long Xuyên xác nhận: Bị đơn ông Đinh Văn R có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Mỹ An 2, xã  M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp, niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn hợp lệ nhưng bị đơn đã từ chối các quyền, cũng như không thực hiện nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn ông Đinh Văn R mặc dù được Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng ông Rớt vẫn không tham dự phiên tòa. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Bé H và ông Đinh Văn R xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Khi vợ chồng chung sống thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, bất đồng về quan điểm; đồng thời, ông Rớt không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên ăn nhậu và có những hành vi bạo hành đối với Bà H. Trong quá trình giải quyết vụ án Bà H xác định không còn tình cảm với ông Rớt, giữa vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn nên Bà H cương quyết yêu cầu ly hôn, ông Rớt cũng không có ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của Bà H.

Hội đồng xét xử nhận thấy, hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện, Bà H xác định không thể tiếp tục chung sống cùng với ông Rớt, hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2020 đến nay, mâu thuẫn kéo dài, giữa vợ chồng không còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng như không cố gắng hàn gắn, duy trì cuộc sống hôn nhân. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà H là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: có 02 con chung, tên Đinh Văn Quí, sinh ngày: 10/3/2002 (đã trưởng thành) và Đinh Văn Trọng, sinh ngày: 10/5/2014. Sau khi ly hôn Bà H yêu cầu trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trọng.

Xét thấy, trong thời gian Bà H, ông Rớt sống ly thân thì cháu Trọng do Bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và vẫn phát triển tốt về mọi mặt, hơn nữa cháu Trọng cũng có nguyện vọng được sống cùng Bà H; quá trình giải quyết, ông Trọng cũng không có văn bản trình bày ý kiến phản đối việc giao con chung cho Bà H tiếp tục nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu khi ly hôn, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Đinh Văn Trọng, sinh ngày: 10/5/2014 cho Bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục theo quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con, cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, đây là quyền lợi của con chưa thành niên. Tuy nhiên, do Bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bà H cùng các thành viên gia đình của bà không được cản trở ông Rớt trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Bà H, ông Rớt có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con theo quy định tại Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về nợ chung: ghi nhận ý kiến của Bà H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Ông Rớt không có văn bản trình bày ý kiến về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử chưa giải quyết. Đương sự có tranh chấp, khởi kiện bằng vụ kiện khác theo quy định.

[7] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Bé H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 186; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Bé H.

[1] Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Bé H với ông Đinh Văn R.

Giấy chứng nhận kết hôn số 225/KH/2005, quyển số 02 do Ủy ban nhân dân phường Mỹ Bình, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cấp cho bà Nguyễn Thị Bé H với ông Đinh Văn R ngày 09/12/2005 hết hiệu lực kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

[2] Về con chung: Bà Nguyễn Thị Bé H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Đinh Văn Trọng, sinh ngày: 10/5/2014.

Ông Đinh Văn R không trực tiếp nuôi con chung nhưng ông có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản ông Rớt thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Đinh Văn R không phải cấp dưỡng nuôi con chung do Bà H không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Bé H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000494 ngày 14 tháng 6 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Long Xuyên. Bà H đã nộp đủ tiền án phí.

[7] Về quyền kháng cáo: Bà H, ông Rớt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 205/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:205/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;