Bản án về tranh chấp ly hôn số 20/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 97/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2021 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2021/QĐXX-ST ngày 02 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị G - sinh năm: 1995 – Hộ khẩu thường trú: 250/41/09 N, phường P, quận S, Thành phố Đà Nẵng. Chỗ ở hiện nay: xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

- Bị đơn: Ông Lê Minh T – sinh năm: 1991 – HKTT: 250/41/09 N, phường P, quận S, Thành phố Đà Nẵng. Hiện đang chấp hành án tại Đội 12-K2, Trại Giam A– Bộ Công An. vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/6/2021 và bản tự khai ngày 21/6/2021 nguyên đơn bà Phạm Thị G trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: bà G và ông T kết hôn vào năm 2014, hôn nhân tự nguyện, đăng ký tại UBND phường P, quận S, Đà Nẵng theo giấy chứng nhận số 41 ngày 11/6/2014. Sau khi kết hôn ông về sống ở nhà cha mẹ chồng tại địa chỉ 250/41/09 N, phường P, quận S, Thành phố Đà Nẵng. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông T không lo làm ăn, tụ tập chơi bời và dính vào ma túy. Năm 2017 bị bắt và hiện đang chấp hành án 9 năm 6 tháng tại Trại giam A, vợ chồng sống ly thân từ đó. Nay về tình cảm bà G xác nhận không còn yêu thương ông T nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T .

- Về quan hệ con chung: bà G xác định có 01 con chung Lê Ngọc Diễm M – sinh ngày: 12/8/2015. Ly hôn nguyện vọng của bà G được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: bà G xác định không có.

- Bị đơn, ông Lê Minh T do hiện đang chấp hành án tại Trại giam A – Bộ Công an, có đơn xin xét xử vắng mặt có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau: Ông T thống nhất về thời gian và điều kiện kết hôn như bà G trình bày.

Ông T cho rằng giữa ông bà không có mâu thuẫn nên ông không đồng ý ly hôn với bà G, ông đề nghị khi nào ông chấp hành án xong mới giải quyết việc ly hôn.

- Về con chung: ông T xác định có 01 con chung Lê Ngọc Diễm M – sinh ngày: 12/8/2015. Ông T xin đoàn tụ gia đình để con cái có đầy đủ cả cha và mẹ.

- Về tài sản chung, nợ chung: ông T không có ý kiến về vấn đề này.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S phát biểu về sự tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của các đương sự.

Về nội dung: đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình.

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị G về việc ly hôn với ông Lê Minh T

Về con chung: Giao con Lê Ngọc Diễm M – sinh ngày: 12/8/2015 cho bà Phạm Thị G trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Ông Lê Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định: Về thủ tục tố tụng:

[1] Tòa án nhân dân quận S đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa nhưng tại phiên tòa hôm nay bà G, ông T có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của BLTTDS, Tòa án tiến hành xét vử vắng mặt họ.

Về nội dung vụ án:

[2] bà Phạm Thị G xây dựng gia đình với ông Lê Minh T vào năm 2014, hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận số 41 ngày 11/6/2014. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[3] Sau khi kết hôn ông bà về sống tại địa chỉ 250/41/09 N, phường P, quận S, Thành phố Đà Nẵng. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông T không lo làm ăn, tụ tập chơi bời và dính vào ma túy nên thường xảy ra cãi vã. Năm 2017, ông T bị bắt và hiện đang chấp hành án tại Trại giam A, vợ chồng sống ly thân từ đó. Tại phiên toà sơ thẩm hôm nay, bà G xác định không còn yêu thương ông T nữa nên xin được ly hôn. Còn bị đơn ông T xin được đoàn tụ gia đình, yêu cầu sau khi ông chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương rồi giải quyết việc ly hôn.

[4]Xét yêu cầu xin ly hôn của bà G thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thật sự có được dựa trên sự yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thế nhưng bà G, ông T lại không làm được điều này. Giữa bà G, ông T từ khi kết hôn năm 2014 đến nay chỉ chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn xảy ra cả hai bên đều không có giải pháp gì để hàn gắn và xây dựng lại gia đình, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2017 đến nay, do ông T đi chấp hành án tại Trại giam A. Mặt khác tình trạng hôn nhân bà G trình bày cũng phù hợp với các thông tin mà chính quyền địa phương cung cấp. Vì vậy HĐXX có đủ cơ sở nhận định cuộc sống chung ông bà không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đựơc nên chấp nhận cho bà G được ly hôn ông T là hoàn toàn phù hợp với điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Bà G, ông T xác định có 01 con chung Lê Ngọc Diễm M – sinh ngày: 12/8/2015. Bà G có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi. Còn ông T cũng có nguyện vọng được đoàn tụ gia đình để con cái có đầy đủ cả cha và mẹ. Xét yêu cầu của các bên đương sự thì thấy: Việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng đều phải dựa vào quyền lợi mọi mặt của con, đảm bảo được sự phát triển của con cả về thể chất lẫn tinh thần, hiện nay bà G có chỗ ở ổn định, cháu M là con gái, từ khi sinh ra luôn được mẹ chăm sóc. Đối với ông T hiện đang chấp hành án tại Trại Giam A về tội phạm ma túy. Hội đồng xét xử xét thấy nên giao con chung cho bà G trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với tình hình thực tế, ổn định cuộc sống của con, cũng như quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: bà Phạm Thị G không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị G xác định không có. Ông Lê Minh T không có ý kiến về vấn đề này nên HĐXX không đề cập giải quyết. Sau này các đương sự có tranh chấp, khởi kiện tại Tòa án thì sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[8]Đối với ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng thấy phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[9] Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đồng bà G phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của bà Phạm Thị G đối với ông Lê Minh T.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Phạm Thị G được ly hôn với ông Lê Minh T (Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của Phạm Thị G đối với ông Lê Minh T nên giấy chứng nhận kết hôn hôn số 41 do UBND phường P, quận S, TP Đà Nẵng cấp ngày 11/6/2014 không còn giá trị pháp lý)

2. Về con chung: Giao con Lê Ngọc Diễm M – sinh ngày: 12/8/2015 cho bà Phạm Thị G trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Ông Lê Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Cả hai bên đương sự đều được thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên đương sự có quyền xin thay đổi người nuôi con hoặc yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không có đề cập đến

4. Về án phí: Án phí HNGĐ sơ thẩm 300.000đồng bà Phạm Thị G phải chịu. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, TP. Đà Nẵng biên lai thu số 0006799 ngày 21 tháng 6 năm 2021.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết tại nơi thường trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 20/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;