Bản án về tranh chấp ly hôn số 19/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 19/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 245/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn”theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị D, sinh năm 1999 (có mặt) Địa chỉ: Ấp 1, xã Kh H, huyện U M, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 9, xã Kh L, huyện U M, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn bà Trần Thị D trình bày:

Về hôn nhân: Được sự đồng ý của gia đình hai bên năm 2018 bà và ông Nguyễn Tấn L tự nguyện làm đám cưới, chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Lâm, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có một người con chung. Thời gian gần đây vợ chồng luôn phát sinh nhiều mâu thuẫn, xuất phát từ mâu thuẫn với gia đình bên chồng dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đã hàn gắn nhiều lần nhưng không được.

Xét thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Tấn L.

Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Thúy An, sinh ngày 19/01/2019 hiện sống chung với bà. Sau khi ly hôn con chung bà yêu cầu nuôi con không yêu cầu ông L cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với ông Nguyễn Tấn L, Tòa án nhân dân huyện U Minh đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và phiên tòa sơ thẩm nhưng ông L vắng mặt không có lý do và không có ý kiến đối với yêu cầu của bà D.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh phát biểu: Về thủ tục tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị D đối với ông Nguyễn Tấn L; giao con chung tên Trần Thúy An, sinh ngày 19/01/2019 cho bà Trần Thị D tiếp tục nuôi dưỡng, bà D không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét; tài sản chung, nợ chung không yêu cầu nên không xem xét; án phí các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng, quan hệ tranh chấp: Bà Trần Thị D yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Tấn L tranh chấp được xác định là tranh chấp hôn nhân gia đình về việc ly hôn thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Tấn L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không rõ lý do nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt ông L theo quy định.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị D và ông Nguyễn Tấn L làm đám cưới chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện vào năm 2018 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Lâm, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau theo quy định nên quan hệ hôn nhân của bà D và ông L là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Bà Trần Thị D yêu cầu ly hôn với ông L vì bà D xác định thời gian chung sống vợ chồng luôn phát sinh nhiều mâu thuẫn xuất phát từ mâu thuẫn với gia đình bên chồng dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đã hàn gắn nhiều lần nhưng không được nên đã ly thân. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông L nhưng ông L không có ý kiến gì đối với yêu cầu ly hôn của bà D và cũng không có biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó cho thấy cuộc sống hôn nhân của bà D và ông L không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Trần Thị D ly hôn với ông Nguyễn Tấn L.

[3] Về nuôi con chung: Bà Trần Thị D và ông Nguyễn Tấn L có 01 con chung tên Trần Thúy An, sinh ngày 19/01/2019, tại phiên tòa bà D xác định con chung hiện sống chung với bà. Xét thấy, hai con chung hiện nay do bà D nuôi dưỡng và Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông L nhưng ông L không có ý kiến gì đối với việc bà D yêu cầu được quyền nuôi con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung khi cha mẹ ly hôn nên Hội đồng xét xử giao con chung tên Trần Thúy An cho bà D tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông L không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom không ai được cản trở.

Bà Trần Thị D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Bà D xác định không yêu cầu, ông L cũng không có ý kiến gì đối với tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về nợ chung: Bà Trần Thị D xác định không có, ông L cũng không có ý kiến gì đối với việc bà D xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Từ những phân tích trên, xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.

[6] Về án phí sơ thẩm: Bà Trần Thị D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị D. Bà Trần Thị D được ly hôn với ông Nguyễn Tấn L.

- Về nuôi con chung: Giao con chung tên Trần Thúy An, sinh ngày 19/01/2019 cho bà Trần Thị D tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Nguyễn Tấn L không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom không ai được cản trở.

- Về án phí: Bà Trần Thị D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng. Bà Trần Thị D đã nộp tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010129 ngày 01/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau được chuyển thu án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 19/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;