Bản án về tranh chấp ly hôn số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 298/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 13/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST- HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Ngọc L, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Ấp T, xã C, huyện T, tỉnh A.

Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1986. Địa chỉ: Ấp 1A, xã A, huyện B, tỉnh L.

(Chị Phạm Thị Ngọc L có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Hoàng A vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 07/5/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, chị L có đơn xin vắng mặt nhưng tại bản tự khai trình bày:

Năm 2009, chị L và anh Nguyễn Hoàng A xác lập quan hệ hôn nhân đến năm 2012 đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện B theo quyển số 01/2012 ngày 14/9/2021. Sau khi kết hôn, chị và anh Hoàng A chung sống tại ấp 1A, xã A, huyện B, tỉnh L. Vợ chồng chung sống thời gian đầu có đảm bảo hạnh phúc nhưng sau này thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau dẫn đến cải vả nên đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay, không ai còn quan tâm đến nhau. Nay, chị xét thấy không thể tiếp tục chung sống với anh Hoàng A và yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng A.

Về quan hệ con chung: Chị và anh Hoàng A chung sống có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng Q, sinh ngày 24/11/2012 và Nguyễn Ngọc Thảo V, sinh ngày 21/3/2016. Hiện tại chị đang trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Hoàng A cấp dưỡng nuôi con theo luật định.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh Hoàng A chung sống không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Hoàng A đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên hòa giải và các văn bản tố tụng khác theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng vẫn vắng mặt không lý do và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tài liệu chứng cứ chị L cung cấp cho Tòa án gồm: 01 trích lục giấy chứng nhận kết hôn; 02 giấy khai sinh con chung; chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

[1]. Nguyên đơn khởi kiện bị đơn về việc tranh chấp “Ly hôn”. Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm thuộc Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

[2]. Anh Nguyễn Hoàng A đã được Tòa án tống đạt giấy báo phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt theo qui định pháp luật.

Về nội dung tranh chấp:

[3]. Chị L, anh Hoàng A xác lập quan hệ vợ chồng và có đăng ký kết hôn theo qui định. Căn cứ khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận.

[4]. Xét yêu cầu ly hôn của chị L, Hội đồng xét xử xét thấy các đương sự kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng có thời gian dài chung sống nhưng không đảm bảo hạnh phúc. Trong quá trình nộp đơn khởi kiện, chị L cho rằng giữa hai anh chị đã xảy ra mâu thuẫn. Năm 2019, chị và anh Hoàng A đã sống ly thân cho đến nay không còn quan tâm đến nhau. Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã cho hai anh chị thời gian đoàn tụ nhưng anh Hoàng A không có bất kỳ ý kiến về yêu cầu ly hôn của chị L mà vẫn vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc đoàn tụ giữa các đương sự không có kết quả nên Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn giữa hai anh chị đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cho chị L được ly hôn anh Nguyễn Hoàng A.

[5]. Về nuôi con chung: tại bản tự khai ngày 17/3/2022 chị L xác định giữa chị và anh Hoàng A chung sống có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng Q, sinh ngày 24/11/2012 và Nguyễn Ngọc Thảo V, sinh ngày 21/3/2016, hiện tại chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị yêu cầu tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh Hoàng A cấp dưỡng theo quy định pháp luật. Xét sự tự nguyện của chị L là phù hợp quy định pháp luật nên giao cháu Q, V cho chị L nuôi dưỡng. Anh Hoàng A không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con theo qui định của pháp luật.

[6]. Về tài sản chung; Nợ chung: Chị L xác định không có nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[7]. Án phí sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Phạm Thị Ngọc L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, Điểm a khoản 1 các Điều 35; Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 1 Điều 227 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng khoản 1 Điều 9; Điều 56; Các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Phạm Thị Ngọc L đối với anh Nguyễn Hoàng A.

1. Quan hệ vợ chồng: Chị Phạm Thị Ngọc L được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng A.

2. Quan hệ con chung: Chị Phạm Thị Ngọc L được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Hoàng Q, sinh ngày 24/11/2012 và Nguyễn Ngọc Thảo V, sinh ngày 21/3/2016. Anh Nguyễn Hoàng A không phải cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở. Vì lợi ích của con theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức đóng góp phí tổn nuôi con.

Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng con, thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Ngọc L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 08355 ngày 14/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An chuyển sang án phí.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết hợp lệ bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;