Bản án vê tranh chấp ly hôn số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2022 VÊ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21/4/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 307/2021/LTST- HNGĐ ngày 24/11/2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/3/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31/3/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông B D, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Tổ 2, ấp 4, xã Xuân Tây, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Bà T T N, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ 2, ấp 4, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai.

(Ông Dương vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bà Ny vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/11/2021, bản tự khai, biên bản lấy lời khai nguyên đơn ông B D trình bày:

Ông và bà T T N trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X vào năm 2012. Sau khi chung sống một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do các vấn đề về kinh tế gia đình, công việc làm ăn, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã, ngày càng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc hôn nhân không đạt được nên ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Ny.

Về con chung: Ông với bà Ny có 01 con chung là cháu B G B, sinh ngày 17/6/2010. Khi ly hôn, ông yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bà Ny cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có, và không yêu cầu giải quyết.

- Bị đơn bà T T N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt tại Tòa án để làm việc nên không có lời khai.

Các tài liệu, chứng cứ của vụ án:

- Nguyên đơn nộp các tài liệu, chứng cứ gồm có: Giấy Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu (bản sao); Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); Giấy khai sinh con chung (bản sao); Đơn xin giải quyết vắng mặt; Bản tự khai.

- Bị đơn nộp các tài liệu, chứng cứ gồm có: Không có.

- Các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập được: Biên bản xác minh; Biên bản lấy lời khai đương sự, người làm chứng.

Và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đã thực hiện đúng. Việc thu thập chứng cứ của Tòa án đầy đủ. Nguyên đơn chấp hành và thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng, bị đơn không chấp hành và thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng.

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ Điều 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và các Điều 85, 87, 89, 91, 92, 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000..

Về quan hệ hôn nhân: Có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Dương.

Về con chung: Giao con chung cho ông Dương trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời bà Ny không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

Về án phí sơ thẩm: Theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông B D và bà T T N tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Tây vào năm 2012 theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nên xác định là hôn nhân hợp pháp. Ông Dương trình bày vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do các vấn đề về kinh tế gia đình, công việc làm ăn, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã, ngày càng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng ly thân từ năm 2016 cho đến nay, cho nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Ny. Theo lời khai của ông Nguyễn Văn Hà là cậu ruột của ông B D cũng cho thấy vợ chồng ông Dương, bà Ny có nhiều mâu thuẫn, cho dù gia đình, họ hàng hai bên hòa giải nhưng không được. Ngoài ra, bà Ny đã được triệu tập hợp lệ để làm việc, hòa giải, xét xử nhưng đều vắng mặt không có lý do, không có lời trình bày, chứng tỏ bà Ny không muốn hòa giải để vợ chồng hàn gắn đoàn tụ. Từ đó xác định tình trạng hôn nhân giữa ông Dương, bà Ny đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó có căn cứ để chấp nhập yêu cầu ly hôn của ông Dương.

[3] Về con chung và việc cấp dưỡng nuôi con: ông Dương yêu cầu trực tiếp nuôi con chung là cháu B G B, sinh ngày 17/6/2010 và không yêu cầu bà Ny cấp dưỡng nuôi con chung; ông cũng xác định mình có đủ điều kiện nuôi con mà không cần bà Ny cấp dưỡng nuôi con, đây yêu cầu tự nguyện của ông Dương. Ngoài ra, thời gian sống ly thân ông Dương là người trực tiếp chăm sóc con chung, cháu Bảo cũng có nguyện vọng được sống chung với ông Dương, còn bà Ny không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến về những yêu cầu của ông Dương, do đó có căn cứ để chấp nhận yêu cầu này của ông Dương.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: ông Dương trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; bà Ny vắng mặt không có lời khai về việc này nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: ông B D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39; khoản 2 Điều 92; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 266; Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 9; 11; 12 của Luật Hôn nhân và gia đình 2000.

Căn cứ Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 và Điều 131 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của ông B D.

Ông B D được ly hôn bà T T N.

2. Về con chung: Giao cháu B G B, sinh ngày 17/6/2010 cho ông B D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi).

Bà T T N tạm thời không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà T T N được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản. Khi cần thiết, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Ông B D phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn. Khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông B D đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000856 ngày 24/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ. Ông B D đã nộp đủ tiền án phí.

5. Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án vê tranh chấp ly hôn số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;