Bản án về tranh chấp ly hôn số 172/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 172/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 635/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 47/2021/QĐST-HNGĐ ngày 30/3/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn : Nguyễn Thị Mỹ E, sinh năm 1993 (có mặt);

Địa chỉ: 182 ấp B, xã C, huyện A, tỉnh Tiền Giang. Chỗ ở: ấp D, xã C, huyện A, Tiền Giang.

2. Bị đơn : Huỳnh Thanh F, sinh năm 1992 (vắng mặt);

Địa chỉ: 182 ấp B, xã C, huyện A, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn ly hôn, bản tự khai và biên bản hòa giải, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ E trình bày: Chị và anh F tìm hiểu và tự nguyện cưới nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân xã C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 25 ngày 26/6/2015. Quá trình anh chị sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh F thường xuyên cờ bạc, nợ nần không lo cho vợ con, thường xuyên tranh cải, gây gổ chị đã cho anh nhiều cơ hội sửa đổi nhưng không có kết quả. Anh chị sống ly thân từ tháng 9 năm 2020, nay chị nhận thấy hôn nhân không thể kéo dài, không khả năng hàn gắn, tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh F.

Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc G, sinh ngày 25/5/2015. Chị E đang nuôi dưỡng con chung, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con không yêu cầu anh F cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

* Đối với bị đơn anh Huỳnh Thanh F từ khi thụ lý vụ án đến nay, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo qui định của pháp luật nhưng anh F vẫn vắng mặt không rõ lý do và không trình bày ý kiến của mình.

* Tại phiên tòa, chị E vẫn giữ y yêu cầu khởi kiện cho chị được ly hôn anh Huỳnh Thanh F.

Về con chung: Chị E đang nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc G, chị không yêu cầu anh F cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: chị E trình bày không có.

* Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đúng theo quy định pháp luật; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân thủ đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân chị E và anh F mâu thuẩn trầm trọng, sống ly thân từ năm 2019 nhưng không thể hàn gắn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị E ly hôn với anh F

+ Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc G cháu từ nhỏ được mẹ chăm sóc nuôi dưỡng, nên cần thiết giao cho chị E tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Ghi nhận việc chị E không yêu cầu anh F cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Căn cứ vào yêu cầu của chị Nguyễn Thị Mỹ E về việc tranh chấp “ly hôn” với anh Huỳnh Thanh F thuộc trường hợp được qui định khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[2] Về hôn nhân: Qua lời trình bày của chị Nguyễn Thị Mỹ E, Hội đồng xét xử nhận định:

Chị và anh F tìm hiểu và tự nguyện cưới nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân xã C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 25 ngày 26/6/2015. Quá trình anh chị sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh F thường xuyên tranh cải, cờ bạc, nợ nần không lo cho vợ con, anh chị đã cố hàn gắn nhưng không có kết quả. Anh chị sống ly thân từ tháng 9 năm 2020, nay chị nhận thấy hôn nhân không thể kéo dài, không khả năng hàn gắn, tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh F. Đồng thời, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh F nhưng anh vẫn không đến tham dự phiên tòa và không có ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị E, điều đó chứng tỏ anh F không có ý muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử xác định, mâu thuẫn vợ chồng giữa anh F và chị E đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị E là phù hợp với qui định của pháp luật do đó Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc G, sinh ngày 25/5/2015. Hiện con chung đang được chị E nuôi dưỡng, cháu còn nhỏ nên cần sự chăm sóc nuôi dưỡng của người mẹ và để con chung có cuộc sống ổn định và phát triển tốt nên cần tiếp tục giao con chung cho chị E nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận việc chị E không yêu cầu anh F cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Không có.

[5] Về nợ chung: Không có.

[6] Đối với anh Huỳnh Thanh F Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh vẫn vắng mặt không rõ lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh F.

Từ những nhận định trên và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nG dân phát biểu quan điểm là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36; khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về áp dụng án phí, lệ phí.

Xử Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ E.

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ E được ly hôn với anh Huỳnh Thanh F.

[2] Về con chung: Giao 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc G, sinh ngày 25/5/2015 cho chị E tiếp tục nuôi chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng: Ghi nhận việc chị E không yêu cầu anh Huỳnh Thanh F cấp dưỡng nuôi con.

Không ai được quyền ngăn cản chăm sóc, thăm nom con chung sau khi ly hôn.

[3] Về tài sản chung: Không có.

[4] Về nợ chung: Không có.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Mỹ E phải chịu 300.000đồng án phí hôn nG gia đình sơ thẩm. Chị E đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0004460 ngày 02/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Tiền Giang nên chị đã thi hành xong.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, các đương sự có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Anh Huỳnh Thanh F được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 172/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:172/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;