Bản án về tranh chấp ly hôn số 17/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 127/2022/TLST-HNGĐ, ngày 28 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 11 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị V, sinh năm 1974, có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Khóm 2, thị trấn L, huyện D, tỉnh Trà Vinh.

2. Bị đơn: Anh Lâm Văn H, sinh năm 1973, có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Khóm 2, thị trấn L, huyện D, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 21/02/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị V trình bày:

Vào năm 1991 chị và chồng tên Lâm Văn H do mai mối đã tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh năm 2002. Sau khi cưới nhau vợ chồng về sinh sống tại khóm 2, thị trấn L, huyện D, tỉnh Trà Vinh. Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Lâm Thị Huyền T, sinh năm 1993 và Lâm Minh T, sinh năm 1999 đều đã trưởng thành. Thời gian đầu cưới nhau vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2014 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã nhau, anh H thay đổi tính tình thường xuyên uống rượu về kiếm chuyện và đánh đập chị. Chị đã nhiều lần khuyên can nhưng anh H vẫn không thay đổi tính tình. Vì vậy vợ chồng đã ly thân từ tháng 6/2014 cho đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng tuy có nói chuyện nhưng chỉ vài câu, không có hỏi thăm để cùng nhau đoàn tụ. Nay tự nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục được nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Chị yêu cầu được ly hôn với anh Lâm Văn H.

- Về con chung: Có 02 con chung đều đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 28/4/2022, bị đơn anh Lâm Văn H trình bày:

Thống nhất lời trình bày của chị V về thời gian kết hôn; mâu thuẫn vợ chồng; về con, tài sản và nợ chung của vợ chồng. Nay tự nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục được nữa nên anh có ý kiến như sau:

- Về hôn nhân: Anh đồng ý ly hôn với chị Lê Thị V.

- Về con chung: Có 02 con chung đều đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn chị Lê Thị V và bị đơn anh Lâm Văn H đều có đơn xin xét xử vắng mặt, nội dung đơn chị V và anh H đều giữ nguyên yêu cầu giải quyết về hôn nhân, nuôi con, tài sản và nợ chung.

Lời phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về thủ tục tố tụng: Thủ tục thụ lý hồ sơ, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thành phần Hội đồng xét xử đều đúng quy định pháp luật. Các văn bản tố tụng từ khi khởi kiện đến khi Quyết định đưa vụ án ra xét xử đều tống đạt cho các đương sự đầy đủ đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Lê Thị V được ly hôn với anh Lâm Văn H; về con chung đều đã trưởng thành, không xem xét giải quyết; về tài sản và nợ chung: Các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét.

Về án phí: Buộc chị Lê Thị V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Các tình tiết, sự kiện đương sự không thống nhất:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị V và anh Lâm Văn H thuận tình ly hôn.

- Về nuôi con chung: Có 02 con chung đều đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Các tình tiết, sự kiện đương sự không thống nhất: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Chị V khởi kiện anh H yêu cầu ly hôn, không yêu cầu giải quyết về con chung, tài sản và nợ chung. Anh H không có yêu cầu phản tố nào khác. Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án tranh chấp ly hôn. Bị đơn anh H có địa chỉ cư trú tại khóm 2, thị trấn L, huyện D, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào các Điều 227, 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị V, anh H theo quy định của pháp luật.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị V:

[3.1] Về hôn nhân: Chị V và anh H xác lập quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh Trà Vinh năm 2002. Tại thời điểm đăng ký kết hôn, chị V và anh H đủ điều kiện kết hôn. Căn cứ vào các Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình, xác định hôn nhân của chị và anh H là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, chị V khai nhận: Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn do không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã nhau, anh H thay đổi tính tình thường xuyên uống rượu về kiếm chuyện và đánh đập chị. Chị đã nhiều lần khuyên can nhưng anh H vẫn không thay đổi tính tình. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 6/2014 cho đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng tuy có nói chuyện nhưng chỉ vài câu, không có quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và tạo điều kiện để cùng nhau đoàn tụ. Anh H thống nhất với nguyên nhân mâu thuẫn do chị V khai nhận.

Xét thấy gia đình là tế bào xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và bền vững. Quá trình chung sống giữa chị V và anh H chưa thống nhất với nhau về quan điểm sống, về ứng xử giao tiếp; đáng lẽ khi mâu thuẫn xảy ra anh chị phải ngồi lại tìm phương án để giải quyết mọi vấn đề bất đồng phát sinh nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình, nhưng khi xảy ra mâu thuẫn anh chị bỏ mặt không quan tâm đến hạnh phúc mà anh chị đã xây dựng nhiều năm qua, từ đó làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Tại các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Tòa án đã tạo điều kiện cho anh chị hàn gắn lại với nhau, tuy nhiên chị V kiên quyết xin ly hôn, anh H đồng ý ly hôn với chị V.

Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị V và anh H ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình, xét yêu cầu xin ly hôn của chị V là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Chị V và anh H chung sống với nhau có 02 con chung đều đã trưởng thành, không có tranh chấp nên không xem xét.

[3.3] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị V phải nộp án phí hôn nhân gia đình không có giá ngạch là 300.000 đồng.

[5] Xét quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Lê Thị V được ly hôn với anh Lâm Văn H.

2. Về con chung: Các con của chị V và anh H đều đã trưởng thành, không có tranh chấp nên không xem xét.

3. Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét.

4. Về án phí: Buộc chị Lê Thị V phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị V đã nộp theo biên lai số 0009405 ngày 11 tháng 3 năm 2022 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện D thu. Chị V không phải nộp thêm.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Duyên Hải - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;