Bản án về tranh chấp ly hôn số 17/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 17/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 58/2019/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 148/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị Ngọc L, sinh năm 1980; địa chỉ cư trú: Tổ 01, ấp T, xã T, huyện P, tỉnh An Giang (vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Chu Ming P, sinh năm 1958; địa chỉ cư trú: Khóm 3, phường A, thị trấn T, T, Đài Loan (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai cùng đề ngày 15/7/2019, nguyên đơn bà Phan Thị Ngọc L (sau đây gọi tắt là bà L) trình bày:

Do được mai mối và qua tìm hiểu, bà và ông Chu Ming P xác lập quan hệ hôn nhân năm 2000, có tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống và có đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp tỉnh An Giang ngày 04/4/2000 (theo Trích lục kết hôn số:

06/TLKH-BS ngày 14/01/2019 của Sở Tư pháp tỉnh An Giang). Sau kết hôn, vợ chồng chung sống ở Đài Loan khoảng 03 tháng thì bà trở về Việt Nam và vợ chồng sống ly thân đến nay. Bà có liên lạc với ông Chu Ming P và gia đình ông Chu Ming P nhưng không liên lạc được. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Chu Ming P.

tụng.

Về con chung: Không có; về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Bà L có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt bà trong suốt quá trình tố Tòa án đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp đối với bị đơn ông Chu Ming P cư trú tại Đài Loan theo Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự số: 58/UTTPDS-TA1 ngày 07/8/2019, cụ thể: Gửi Thông báo về việc thụ lý vụ án; Lịch làm việc của Tòa án. Văn bản ủy thác tư pháp đã được Bộ Tư pháp gửi đến Bộ Tư pháp Lãnh thổ Đài Loan, Cơ quan có thẩm quyền của Lãnh thổ Đài Loan đã thực hiện ủy thác tư pháp nêu trên bằng phương thức gửi hồ sơ ủy thác tư pháp tại đồn công an.

Ông Chu Ming P không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà L.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Bà L cư trú tại huyện P, tỉnh An Giang, Việt Nam; ông Chu Ming P cư trú tại Đài Loan. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 2 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 40 và điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Vụ án không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang không tham gia phiên tòa sơ thẩm.

[1.3] Bà L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; ông Chu Ming P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên xem như ông Chu Ming P từ bỏ quyền của mình tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà L và ông Chu Ming P.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà L và ông Chu Ming P tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp tỉnh An Giang ngày 04/4/2000 đúng theo quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông Chu Ming P được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Từ ngày bà L nộp đơn khởi kiện ly hôn đến ngày mở phiên tòa, ông Chu Ming P không liên lạc với bà L, ông Chu Ming P không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà L và vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng. Điều đó đã thể hiện ý chí của ông Chu Ming P không còn tình cảm vợ chồng với bà L, không có thiện chí hàn gắn quan hệ hôn nhân với bà L.

Như vậy, hôn nhân giữa bà L và ông Chu Ming P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, không có nghĩa vụ vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Do đó, bà L yêu cầu ly hôn với ông Chu Ming P là có căn cứ đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà L ly hôn với ông Chu Ming P.

[2.2] Về con chung, về tài sản chung và nợ chung: Bà L xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ vào khoản 1 Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chỉ giải quyết vụ án trong phạm vi đơn khởi kiện của bà L. Do đó, Hội đồng xét xử không giải quyết về con chung, về tài sản chung và nợ chung giữa bà L và ông Chu Ming P.

[3] Về chi phí tố tụng: Bà L phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 153 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 28, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 153, khoản 1 Điều 273 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị Ngọc L. Bà Phan Thị Ngọc L được ly hôn với ông Chu Ming P.

2. Về con chung, về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.

3. Về chi phí tố tụng: Bà Phan Thị Ngọc L phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), được trừ vào lệ phí ủy thác tư pháp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) bà L đã nộp theo Biên lai thu tiền số: 0002533 ngày 12/8/2019 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh An Giang.

4. Về án phí: Bà Phan Thị Ngọc L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0005170 ngày 30/7/2019 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh An Giang.

5. Về quyền kháng cáo:

- Bà Phan Thị Ngọc L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

- Ông Chu Ming P được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 17/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;