Bản án về tranh chấp ly hôn số 167/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 167/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 257/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng K, sinh năm 1992 (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Bị đơn: Ông Võ Xuân Q, sinh năm 1987 (Vắng mặt). Địa chỉ: Ấp 2, xã M, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Tạm trú: Ấp B, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 16 tháng 3 năm 2022 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng K trình bày: Bà và ông Võ Xuân Q chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên bà xin ly hôn với ông Võ Xuân Q.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông bà có hai con chung tên Võ Nguyễn Khánh H, sinh ngày 09/01/2015 và Võ Nguyễn H Thịnh, sinh ngày 11/01/2017. Con chung H đang sống chung với ông Q, Thịnh đang sống chung với bà. Khi ly hôn, bà K xin được quyền nuôi con H Thịnh, giao con Khánh H cho ông Q nuôi. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, bà Nguyễn Thị Hồng K có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng ông Võ Xuân Q vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Hồng K khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Võ Xuân Q, ông Q hiện thường trú tại ấp 2, xã M, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An nhưng hiện đang tạm trú và có mặt tại ấp B, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (được Công an xã Đ xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng K xin vắng mặt; bị đơn ông Võ Xuân Q đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hồng K và ông Võ Xuân Q chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Thấy rằng, trong quá trình chung sống, bà K cho rằng do cuộc sống vợ chồng không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Mâu thuẫn giữa ông bà cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đối với ông Q, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của bà K nhưng ông Q không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà K. Tại phiên tòa, ông Q vẫn vắng mặt, chứng tỏ không có thiện chí để hàn gắn, trong khi vợ chồng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung vợ chồng của ông bà không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của bà K và ông Q là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Bà K trình bày bà và ông Q chung sống có hai con chung tên Võ Nguyễn Khánh H, sinh ngày 09/01/2015 và Võ Nguyễn H Thịnh, sinh ngày 11/01/2017. Con H đang sống với ông Q, Con Thịnh đang sống chung với bà. Khi ly hôn, bà K yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung Thịnh, giao con chung H cho ông Q nuôi. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Đối với ông Q, dù đã được thông báo về yêu cầu của bà K đối với con chung nhưng ông Q vẫn không đến Tòa án, cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án.

Xét thấy, từ khi bà K và ông Q xa nhau đến nay, bà K là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H Thịnh, ông Q là người trực tiếp nguôi dưỡng, chăm sóc cháu Khánh H, ông bà vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của các con chung. Ngoài ra, con chung Khánh H trên 07 tuổi, có nguyên vọng sống với cha. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần tiếp tục giao cháu Thịnh cho bà K nuôi dưỡng, giao cháu H cho ông Q nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà K không yêu cầu bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào nên HĐXX không đề cập, xem xét đến.

[5]. Về tài sản chung: Bà K trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông Q không có văn bản phản hồi ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Bà K trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông Q không có văn bản phản hồi ý kiến về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Hồng K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, 5, 81, 82, 83, và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng K đối với ông Võ Xuân Q về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hồng K được ly hôn với ông Võ Xuân Q.

- Về con chung: Bà Nguyễn Thị Hồng K được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Võ Nguyễn H Thịnh, sinh ngày 11/01/2017. Ông Võ Xuân Q được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Võ Nguyễn Khánh H, sinh ngày 09/01/2015. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Hồng K chịu 300.000đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ nhà nước. Bà K được khấu trừ 300.000đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0009926 ngày 16/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 167/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:167/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;