Bản án về tranh chấp ly hôn số 137/2021/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 

BẢN ÁN 137/2021/HNGĐ-PT NGÀY 14/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14/12/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành Phố Hà Nội xét xử công khai phúc thẩm vụ án thụ lý số126/2019/LHPT ngày 08/11/2021 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 232 /2021/QĐXX-PT ngày 06 tháng 12 năm 2021.

Nguyên đơn: Chị Hoàng Ngọc Q, sinh năm 1993 Địa chỉ: Số nhà 271 TTĐ, phường NC, thành phố LC, tỉnh LC ( Có mặt)

Bị đơn: Anh Dương Trọng V, sinh năm 1989 Địa chỉ: Khu tập thể DG, Tổ 14 phường ĐG, quận LB, thành phố Hà Nội ( Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hoàng Ngọc Quỳnh trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh V kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường ĐG, quận LB, Hà Nội ngày 09/12/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại khu tập thể DG cùng bác ruột anh V được khoảng 01 năm thì chuyển lên LC làm ăn, sinh sống và ở cùng bố mẹ vợ. Sau khi chuyển lên LC ,vợ chồng chung sống hòa thuận được khoảng 02 năm thì bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn tính cách không phù hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh V không tu trí làm ăn mà luôn dựa dẫm vào gia đình vợ. Mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng vào năm 2021, sau khi gia đình về quê chồng ăn Tết, anh V không cho Chị Q đưa con về lại LC. Khi gia đình Chị Q có xuống đón con thì bị gia đình anh V ngăn cản, xúc phạm Chị Q. Hai vợ chồng ly thân từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Những lúc chị Q về nhà anh V đón con thì bị anh V cấm đoán, cản trở không cho chị gặp con. Nay chị Q xác định tình cảm vợ chồng không còn, xin được ly hôn với anh V.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Dương Gia K, sinh ngày 17/7/2018, hiện cháu K đang ở với bố mẹ anh V. Chị không đồng ý để anh V nuôi con vì anh V không trực tiếp nuôi con mà lại để cho ông bà nuôi. Mặt khác, gia đình anh V luôn cản trở việc chị đến thăm con. Chị có công việc ổn định làm kế toán tại Công ty TNHH TMV Nội thất HN, thu thập 10.000.000đ/tháng. Khi ly hôn, Chị Q xin được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Dương Trọng V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh V xác định điều kiện và thời gian kết hôn như chị Q khai là đúng sự thật. Mâu thuẫn vợ chồng chỉ nảy sinh vào đầu năm 2021, khi gia đình về quê anh V tại GL, ăn Tết. Do tình hình dịch bệnh căng thẳng, anh V muốn để con lại để ông bà nội chăm sóc nhưng chị Q không đồng ý, vợ chồng từ đó bất đồng quan điểm, xảy ra cãi vã. Chị Q quay trở lại LC sinh sống còn anh V và con vẫn ở lại nhà ông bà nội. Vợ chồng anh chị sống ly thân từ đó đến nay. Bản thân anh V xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng không lớn, mong muốn được được đoàn tụ, vợ chồng cùng nhau nuôi dạy con chung. Tuy nhiên nếu chị Q cương quyết ly hôn, anh V cũng nhất trí.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Dương Gia K, sinh ngày 17/7/2018 hiện đang ở với anh và ông bà nội. Anh V xác định hiện nay mình có công việc và thu nhập thu nhập ổn định 10 triệu đồng/tháng. Nếu phải ly hôn anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu Chị Q có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 02 triệu đồng/tháng. Anh không đồng ý để Chị Q nuôi con vì từ khi con ở với ông bà nội, chị Q không quan tâm hay có trách nhiệm với con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết Với nội dung trên, tại bản án số 332/2021/HNGĐ-ST ngày 14/7/2021, Tòa án nhân dân quận Long Biên đã xét xử và quyết định:

Căn cứ các Điều 28,35,39,40,147,228,271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự ; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Căn cứ Luật thi hành án dân sự;

Tuyên xử: - Ghi nhận thỏa thuận thuận tình ly hôn của chị Hoàng Ngọc Q, sinh năm 1993 và anh Dương Trọng V, sinh năm 1989 - Về con chung: Xác định Chị Q và anh V có 01 con chung là cháu Dương Gia K sinh ngày 17/7/2018. Giao cháu Dương Gia K cho Chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh V cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc khi có yêu cầu mới. Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 15/7/2021 bị đơn anh Dương Trọng V làm đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm với yêu cầu:Tuyên hủy đối với nội dung giao cháu Dương Gia K cho chị Hoàng Ngọc Q trực tiếp nuôi dưỡng. Vì quyền lợi của con chung, anh đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giao cháu Dương Gia K cho anh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh không yêu cầu Chị Q có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên tòa phúc thẩm các bên đương sự không thỏa thuận được để giải quyết toàn bộ nội dung vụ án. Cả hai anh chị đều có nguyện vọng nuôi con chung với điều kiện như đã trình bày.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự và quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

* Về tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến phiên tòa xét xử hôm nay, thẩm phán và Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tiến hành tố tụng theo đúng các trình tự thủ tục mà Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn và bị đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật.

Đơn kháng cáo của anh Dương Trọng V làm trong hạn hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

* Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân, tài sản chung, nợ chung đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Xét kháng cáo của anh Dương Trọng V: Nguyện vọng nuôi con của anh chị là chính đáng tuy nhiên giao con cho ai phải đảm bảo quyền lợi cho cháu bé. Cả hai anh chị đều có thu nhập ổn định và có nhà ở của bố mẹ rộng rãi. Cháu Dương Gia K sinh ngày 17/7/2018 hơn ba tuổi cần sự chăm sóc của người mẹ có như vậy mới đảm bảo quyền lợi của cháu bé nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Vĩnh.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ điều 55, điều 81,82, 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh V. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 332/2021 ngày 14/07/2021 của Tòa án nhân dân quận LB .

Về án phí: Anh V phải chịu án phí ly hôn phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Dương Trọng V làm trong hạn luật đình là hợp lệ, được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm * Về nội dung vụ án:

[1] Về quan hệ hôn nhân:Anh Dương Trọng V và chị Hoàng Ngọc Q tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường ĐG, quận LB là hôn nhân hợp pháp . Về tình cảm cả hai anh chị không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên phát sinh hiệu lực pháp luật.

[2] Về con chung: Xét kháng cáo dành quyền nuôi con chung của anh Dương Trọng V , Hội đồng xét xử xác định Chị Q và anh V có 01 con chung là cháu Dương Gia K sinh ngày 17/7/2018.

Về điều kiện và khả năng nuôi con của hai anh chị là như nhau, đều có đủ điều kiện để được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung. Anh V hiện đang làm việc tại công ty lắp đặt và mua bán phụ tùng ô tô; Chị Q đang làm kế toán tại Công ty TNHH TMV Nội thất HN. Cả hai anh chị đều có thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 10.000.000 đồng; đều đang có chỗ ở ổn định cùng bố mẹ đẻ rộng rãi ,ông bà sẵn sàng giúp đỡ anh chị trong việc chăm sóc con cái.

Xét thấy, nguyện vọng nuôi con của anh chị là hoàn toàn chính đáng, tuy nhiên việc giao cho ai nuôi dưỡng phải đảm bảo được môi trường và điều kiện phát triển tốt nhất cho con chung. Cháu Dương Gia K hiện nay mới chỉ hơn 03 tuổi, cháu còn nhỏ nên rất cần sự chăm sóc và dạy dỗ từ người mẹ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm giao con chung cho Chị Q chăm sóc, nuôi dưỡng là hợp lý, phù hợp với quy định pháp luật, đảm bảo được quyền lợi của con chung sau ly hôn. Tại cấp phúc thẩm, anh V không cung cấp được tài liệu chứng cứ mới.

Từ các phân tích trên, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Dương Trọng V. Sau này, anh V có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi nuôi con nếu có chứng cứ chứng minh Chị Q không có đủ khả nặng nuôi con theo quy định tại điều 84 Luật hôn nhân và gia đình

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Tạm hoãn nghĩa vụ đóng góp phí tổn nuôi con cho anh V do Chị Q không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không kháng cáo nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Q và anh V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Do không được chấp nhận kháng cáo nên anh V phải chịu án phí ly hôn phúc thẩm theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điều 308 khoản 1, điều 147, 148 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

- Căn cứ Luật thi hành án dân sự

Xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo về quyền nuôi con của anh Dương Trọng V. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 332/LHST ngày 14/7/2021 của Tòa án nhân dân Quận LB.

1.Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận thỏa thuận thuận tình ly hôn của chị Hoàng Ngọc Q, sinh năm 1993 và anh Dương Trọng V, sinh năm 1989 2.Về con chung: Xác định Chị Q và anh V có 01 con chung là cháu Dương Gia K sinh ngày 17/7/2018. Giao cháu Dương Gia K cho chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh V cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc khi có yêu cầu mới. Anh V có quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết 4.Về án phí: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Hoàng Ngọc Q chịu cả 300.000 đ án phí dân sự sơ thẩm đã nộp đủ tại biên lai số AA/2020/0064522 ngày 01/04/202.

Anh Dương Trọng Vĩnh phải nộp 300.000đ án phí ly hôn phúc thẩm đối trừ tạm ứng đã nộp tại biên lai số AA/2020/0064704 ngày 14/09/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long biên.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực để thi hành kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 137/2021/HNGĐ-PT

Số hiệu:137/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;