Bản án về tranh chấp ly hôn số 1262/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1262/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 03 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 259/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 158/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Anh Đ, sinh năm 1988 Địa chỉ: 148 đường L, phường Y, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.(Có đơn xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Đỗ Trọng N, sinh năm 1988 Địa chỉ: 125/4/46 đường V, Phường X, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn, Bà Lê Thị Anh Đ trình bày: Bà và ông Đỗ Trọng N đã tự nguyện tìm hiểu và kết hôn năm 2017, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại UBND Phường X, quận B, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 177/2017 ngày 06/12/2017. Quá trình chung sống không có hạnh phúc ngay sau khi kết hôn, năm ông N không có trách nhiệm với gia đình, chỉ biết ăn chơi cờ bạc và gây nợ nần, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Từ năm 2019 đến nay, hai vợ chồng đã sống ly thân và bà Đ hoàn toàn không còn tình cảm gì với ông N. Nay nhận thấy tình cảm đã hết, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Đ yêu cầu ly hôn ông N.

Trong quá trình chung sống, ông bà có 01 con chung tên: Đỗ Lê Phúc M, sinh ngày 24/12/2017, bà Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn, Ông Đỗ Trọng N vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên không có lời khai.

Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hai bên đoàn tụ nhưng không thành do ông N vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn: Có đơn xin vắng mặt.

Bị đơn: Vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B phát biểu về việc chấp hành đúng quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự của thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự và xác định: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đã thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng.

Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 56, 58, 81 Luật Hôn nhân gia đình đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc ly hôn, giao trẻ, sinh ngày 24/12/2017 cho bà Đ trực tiếp nuôi dưỡng và ông N cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/tháng. Tài sản chung và nợ chung không xem xét do nguyên đơn không có yêu cầu.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định. Bị đơn phải chịu án phí cấp dưỡng theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Căn cứ vào lời khai của đương sự thì giữa các bên đã phát sinh quan hệ tranh chấp “Ly hôn”. Xét việc khởi kiện của Bà Lê Thị Anh Đ phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng: Xét nguyên đơn có đơn xin vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của đương sự:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ Giấy chứng nhận ký kết hôn số 177/2017 ngày 14/4/2014 của Ủy ban nhân dân Phường 03, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh thì quan hệ hôn nhân giữa Bà Lê Thị Anh Đ và ông Đỗ Trọng N là quan hệ hôn nhân hợp pháp, phù hợp với các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình nên được pháp luật bảo vệ.

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và trình bày của Bà Lê Thị Anh Đ thì mâu thuẫn giữa Bà Đ và ông N phát sinh ngay sau khi kết hôn, ông N không có trách nhiệm đối với vợ con, thường xuyên đi chơi đêm không về, cá độ nợ nần rất nhiều. Quãng thời gian bà Đ mang thai, ông N thường xuyên đi đêm không về nhà, có khi đi cả nửa tháng, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Bà Đ đã nhiều lần khuyên can nhưng ông N không thay đổi nên hai bên đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay, điều này cho thấy mâu thuẫn giữa hai bên trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án đã triệu tập ông N để lấy lời khai và tham gia các buổi hòa giải đoàn tụ nhưng ông N đều vắng mặt cho thấy ông N không có thiện chí hàn gắn và muốn tiếp tục cuộc sống hôn nhân với Bà Đ.

Từ những nhận định trên, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình 2014, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở nên được chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Bà Đ và ông N có 01 con chung tên Đỗ Lê Phúc M, sinh ngày 24/12/2017, bà Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung: Theo bà Đ trình bày thì từ khi hai vợ chồng sống ly thân cho đến nay, ông N không hề quan tâm đến con, bỏ mặc mẹ con bà. Và tính đến ngày xét xử, trẻ Nhân chưa đủ 36 tháng tuổi nên theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Đ, giao trẻ N cho bà Đ trực tiếp nuôi dưỡng.

[3.3] Xét yêu cầu của bà Đ, yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000đ (Ba triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 82, Điều 107 Luật Hôn và gia đình năm 2014 và phù hợp với nhu cầu thiết yếu của bà Đ trong việc nuôi con. Vì vậy Hội đồng xét xử buộc ông N cấp dưỡng cho con chung tên Đỗ Lê Phúc M, sinh ngày 24/12/2017 số tiền là 3.000.000 đồng/tháng cho đến khi trẻ M đủ 18 tuổi là phù hợp theo quy định pháp luật, thời gian ông N bắt đầu cấp dưỡng là kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[3.4] Về tài sản chung và nợ chung:

Bà Đ khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí:

- Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Đ phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2019/0017722 ngày 25/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận B, Thành phố Hồ Chí Minh là xong.

- Án phí cấp dưỡng: Ông N phải chịu án phí cấp dưỡng là: 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Điều 26 Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014);

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, Bà Lê Thị Anh Đ.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Anh Đ được ly hôn Ông Đỗ Trọng N.

- Về con chung: Giao con chung tên Đỗ Lê Phúc M, sinh ngày 24/12/2017 cho Bà Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trẻ Nhân đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng: Buộc ông Đỗ Trọng N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho con chung tên Đỗ Lê Phúc M sinh ngày 24/12/2017 số tiền là 3.000.000 (Ba triệu) đồng/tháng cho đến khi trẻ M đủ 18 tuổi. Thời gian ông N bắt đầu cấp dưỡng là kể từ khi án có hiệu lực pháp luật.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

2. Về án phí sơ thẩm:

- Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Anh Đ phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0017722 ngày 25/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành phố Hồ Chí Minh là xong.

- Án phí cấp dưỡng: Ông Đỗ Trọng N phải chịu án phí cấp dưỡng là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng. Nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quyền kháng cáo: Bà Lê Thị Anh Đ và Ông Đỗ Trọng N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp quyết định, bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các qui định tại Điều 6,7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 1262/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:1262/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;