Bản án về tranh chấp ly hôn số 122/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 122/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 203/2022/TLST-HNGĐ, ngày 16 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 220/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 205/2022/QĐST-DS ngày 22/6/2022, giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thu H, sinh năm 1978;

Địa chỉ: Số A/B hẻm RCD, khóm ĐT, phường MT, thành phố LX, tỉnh An Giang.

+ Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1979;

Địa chỉ: Số A/B hẻm RCD, khóm ĐT, phường MT, thành phố LX, tỉnh An Giang.

(bà H có đơn xin xét xử vắng mặt, ông H1 vắng mặt lần 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn là bà Lê Thị Thu H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông H1 do mai mối sau đó tiến tới hôn nhân có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường MT, thành phố LX, tỉnh An Giang vào ngày 03/9/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2018 thì không còn hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất hòa. Nguyên nhân là do chồng không lo làm ăn, cờ bạc, thường xuyên nhậu nhẹt không phụ giúp và lo cho cuộc sống gia đình vợ chồng cũng đã ly thân khỏng 02 năm nay. Bà H nhận thấy mặc dù vợ chồng đã hàn gắn nhiều lần nhưng không được, đời sống hôn nhân không hạnh phúc mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông H1.

Về quan hệ con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thùy D, sinh ngày 02/01/1997 đã trưởng thành; Nguyễn Thị Mỹ U, sinh ngày 05/4/2005. Hiện con chung Nguyễn Thị Mỹ U đang sống cùng mẹ. Sau khi ly hôn bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thị Mỹ U, sinh ngày 05/4/2005 cho đến khi trưởng thành. Bà Lê Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu tòa án giải quyết

Bị đơn Nguyễn Văn H1 vắng mặt và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Bà Lê Thị Thu H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt lý do điều kiện đi lại khó khăn.

Ông Nguyễn Văn H1 vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:

* Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án;

* Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý đến nay:

- Đối với nguyên đơn: đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn: Từ khi thụ lý đến nay, bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến cũng như không tham gia các phiên hoà giải do Toà án thực hiện là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự và còn phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định pháp luật.

- Về nội dung:

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H. Bà H được ly hôn với ông H1.

Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Mỹ U sinh ngày 05/4/2005 cho bà H nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ông H1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà H không có yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tranh chấp giữa bà Lê Thị Thu H và ông Nguyễn Văn H1 là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết.

[1.2] Bà Lê Thị Thu H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt do điều kiện đi lại khó khăn. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà H.

[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt cũng như niêm yết các văn bản tố tụng theo qui định tại Điều 177 và 179 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đồng thời, Tòa án cũng tiến hành thu thập chứng cứ để xác định tình trạng cư trú của ông Nguyễn Văn H1 và được Công an phường MT, thành phố Long Xuyên cung cấp thông tin “Nguyễn Văn H1, sinh năm 1979, có đăng ký thường trú tại Số A/B hẻm RCD, khóm ĐT, phường MT, thành phố LX, tỉnh An Giang”. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông H1.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông H1 do mai mối sau đó tiến tới hôn nhân có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2018 thì không còn hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất hòa. Nguyên nhân là ông H1 không lo làm ăn, cờ bạc, thường xuyên nhậu nhẹt không phụ giúp và lo cho cuộc sống gia đình, vợ chồng cũng đã ly thân khoảng 02 năm nay. Bà H nhận thấy mặc dù vợ chồng đã hàn gắn nhiều lần nhưng không được, đời sống hôn nhân không hạnh phúc mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông H1

[2.2] Phía bị đơn được Tòa án nhiều lần tống đạt cũng như niêm yết văn bản tố tụng tại nơi cư trú nhưng ông H1 vẫn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay, cũng như không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình qua yêu cầu ly hôn của bà H. Như vậy, ông H1 đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của bị đơn được quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đồng nghĩa với việc ông Tùng không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của mình.

[2.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng động viên bà H và tạo thêm thời gian để vợ chồng có cơ hội hàn gắn tình cảm. Tuy nhiên, bà H vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn vì ông H1 không chăm lo cho gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt dẫn đến việc vợ chồng phải ly thân suốt hai năm nhưng vẫn không hàn gắn được. Từ đó, có thể nhận thấy ông H1 không còn quan tâm đến hôn nhân của mình, mặt khác tình cảm của bà H dành cho chồng không còn, tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy, nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà H được ly hôn với ông H1.

[2.4] Về con chung: Bà H và ông H1 có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thùy D, sinh ngày 02/01/1997; Nguyễn Thị Mỹ U, sinh ngày 05/4/2005. Hiện nay cháu U đang sống với mẹ. Do cháu D đã trưởng thành và có khả năng lao động nên bà H không yêu cầu giải quyết. Đối với cháu U chưa thành niên, sau khi ly hôn bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu U. Mặt khác, tại biên bản ghi nguyện vọng cháu U cũng có nguyện vọng được sống với mẹ. Xét thấy, cháu U hiện nay do bà H chăm sóc, do đó nhằm đảm bảo ổn định về tinh thần và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao cháu Nguyễn Thị Mỹ U, sinh ngày 05/4/2005 cho bà H tiếp tục trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục.

[2.5] Về cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, bà H không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi cháu U nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà H và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông H1 được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung. Việc nuôi con không cố định.

[2.6] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, các bên phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí: Bà Lê Thị Thu H phải chịu án phí Hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 177; Điều 179; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 273 và khoản 1 Điều 280; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thu H. Bà Lê Thị Thu H được ly hôn với ông Nguyễn Văn H1.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Mỹ U, sinh ngày 05/4/2005 cho bà Lê Thị Thu H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Ông H1 không phải cấp dưỡng nuôi cháu U.

Bà Lê Thị Thu H và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông Nguyễn Văn H1 được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung. Việc nuôi con không cố định.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

Về án phí: Bà Lê Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001254 ngày 11/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, bà H đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

Bà Lê Thị Thu H và ông Nguyễn Văn H1 được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 122/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:122/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;