Bản án về tranh chấp ly hôn số 11/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 611/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2020 về “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 430/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 327/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm V, sinh năm 1979;

Địa chỉ: Ấp Mỹ An 2, xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1980;

Địa chỉ: Ấp Mỹ An 2, xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/9/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà V và ông K do quen biết và tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 1997, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên ngày 23/05/2002. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, mâu thuẫn trong vấn đề kinh tế gia đình. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được nên bà V yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông K.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 25/11/1999 đã trưởng thành và có đủ khả năng lao động.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Hoàng K vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa, không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm V vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với ông K. Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 25/11/1999 đã trưởng thành và có đủ khả năng lao động . Về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết. Bị đơn ông K vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng đét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa bà V với ông K là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ông Nguyễn Hoàng K có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nên bà V khởi kiện xin ly hôn với ông K thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Ông Nguyễn Hoàng K mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng ông K vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Cẩm V với ông Nguyễn Hoàng K là hôn nhân tự nguyện, ông bà có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường xã Mỹ Hòa H, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang ngày 23/5/2002 là phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đây là hôn nhân hợp pháp nên được công nhận. Trong quá trình chung sống, bà V cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường hay cự cãi, bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp nhau, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên bà V yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông K.

Sau khi xem xét ý kiến của của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng bà V, ông K có những mâu thuẫn không thể hàn gắn được, thể hiện qua việc vợ chồng hiện đã sống ly thân, trong qua trình giải quyết vụ án, tòa án đã tạo điều kiện để cho cả hai có thời gian để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng cả hai chỉ lo cho cuộc sống cá nhân không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Ông K biết việc bà V xin ly hôn nhưng vẫn không đến tòa cũng như gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn của bà V, điều này thể hiện ông K không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, vì vậy nếu tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân này sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của cả hai. Do đó, việc bà V xin ly hôn với ông K là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 25/11/1999 đã trưởng thành và có đủ khả năng lao động nên không xem xét đến nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng.

[4] Về tài sản chung: Bà V trình bày là không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến. Nếu các bên có tranh chấp về tài sản sẽ được khởi kiện bằng vụ kiện khác.

[5] Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Cẩm V phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 8; Điều 9; khoản 2 Điều 53; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Cẩm V và ông Nguyễn Hoàng K.

[2] Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 25/11/1999 đã trưởng thành và có đủ khả năng lao động.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Chưa giải quyết.

[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Cẩm V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà V đã nộp theo biên lai thu số 0005604 ngày 07/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên. Bà V đã nộp xong án phí.

[5] Về quyền kháng cáo:

Bà Nguyễn Thị Cẩm V được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng ông Nguyễn Hoàng K được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 11/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;