Bản án về tranh chấp ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA - TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 240/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2021, về tranh chấp“Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:100/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/12/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm: 1982; Địa chỉ: 251/11 N, phường N, thành phố T, Phú Yên.

2. Bị đơn: Ông Hồ Tấn P, sinh năm: 1978;

Địa chỉ: 251/11 N, phường N, thành phố T, Phú Yên.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi (D) và ông Hồ Tấn P tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, thành phố T vào năm 2001. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cải vã nhau. Đến năm 2013 thì mâu thuẫn trầm trọng, ông P bỏ nhà đi từ đó đến nay, vợ chồng không còn chung sống cùng nhau nữa. Trong thời gian từ năm 2013 cho đến nay, vợ chồng mạnh ai nấy sống, không quan tâm đến nhau, ông P cũng thỉnh thoảng có về nhà nhưng chỉ để thăm con. Nay thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân này nữa nên tôi làm đơn xin được ly hôn với ông P.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Hồ Tấn P, sinh ngày 19/5/2001 và Hồ Tấn T, sinh ngày 02/02/2009. Cháu P đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết. Cháu T hiện đang sống cùng tôi. Ly hôn tôi xin nuôi con và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 23/6/2021 bị đơn ông Hồ Tấn P trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi với vợ mâu thuẫn do vợ nói nặng, tôi tự ái bỏ đi ra làm từ năm 2013 cho đến nay. Tôi không đồng ý ly hôn vì con cái.

- Về con chung: có 02 con chung như chị D trình bày.

- Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng bị đơn vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

* Tại phiên tòa:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, xin được ly hôn với bị đơn; Về con chung, xin nuôi con chung là cháu Hồ Tấn T, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con; Riêng cháu Hồ Tấn P đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết; Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Hồ Tấn P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị D và bị đơn ông Hồ Tấn P tự nguyện tìm hiểu và đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường B, thành phố T vào năm 2001, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cải vã nhau như đương sự trình bày. Đến năm 2013 thì ông P bỏ nhà đi từ đó đến nay. Nay thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân này nữa nên bà D làm đơn xin được ly hôn với ông P. Xét thấy: Nguyên đơn, bị đơn đã không còn sống chung với nhau từ năm 2013 cho đến nay, được khu phố trưởng khu phố N, UBND phường N, thành phố T xác nhận. Việc vợ chồng không còn sống chung với nhau một thời gian dài, không quan tâm, chăm sóc nhau là vi phạm nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặc dù, bị đơn không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của nguyên đơn, nhưng không đưa ra được phương án khắc phục mâu thuẫn, cũng không đến Tòa để hòa giải, nguyên đơn cũng không đồng ý đoàn tụ. Thấy rằng, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài nhiều năm và đã đến mức trầm trọng, nếu tiếp tục cuộc sống hôn nhân sẽ không hạnh phúc và không đạt được mục đích nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn được ly hôn với bị đơn.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung là Hồ Tấn P, sinh ngày 19/5/2001 và Hồ Tấn T, sinh ngày 02/02/2009. Cháu P đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết. Còn cháu T hiện đang sống cùng nguyên đơn. Ly hôn nguyên đơn xin nuôi con và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con, là có căn cứ và phù hợp với nguyện vọng của con nên chấp nhận. Giao con chung là Hồ Tấn T, sinh ngày 02/02/2009 cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng; bị đơn không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 107 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị D được ly hôn ông Hồ Tấn P.

- Về con chung: Giao con chung là Hồ Tấn T, sinh ngày 02/02/2009 cho bà Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Hồ Tấn P không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Đối với con chung là Hồ Tấn P, sinh ngày 19/5/2001, đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản chung: Không xem xét.

Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu số 0004655 ngày 23/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;