Bản án về tranh chấp ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 194/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp về ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/TB-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1966. Địa chỉ: Tổ 33, ấp TV 2, xã TP, huyện GD, tỉnh TN (vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Phạm Văn D, sinh năm 1962. Địa chỉ: Tổ 17, ấp TV, xã TĐ, huyện GD, tỉnh TN (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị S trình bày:

Bà và ông Phạm Văn D chung sống với nhau vào năm 1981 nhưng không có đăng ký kết hôn, nữ trang ngày cưới gồm có đôi bông tai 03 phân vàng 18K và 01 bộ quần áo, hiện không còn nên bà không yêu cầu giải quyết. Sau khi kết hôn ông bà sinh sống tại nhà cha mẹ ruột ông D đến khi ly thân.

Trong quá trình chung sống, ông D thường xuyên uống rượu về đuổi đánh bà gây thương tích và bất tỉnh, hâm dọa đốt nhà, ngoài ra ông D còn có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, kinh tế gia đình khó khăn nhưng ông D không phụ giúp gia đình. Bà và gia đình nhiều lần khuyên can nhưng ông D không thay đổi nên vào khoảng năm 2001 ông bà sống ly thân đến nay mà không bàn việc đoàn tụ.

Về con chung: Ông bà có 04 người con chung gồm: Phan Thị S, sinh năm 1983, Phạm Thị T, sinh năm 1985, Phạm Vũ Y, sinh năm 1988 và Phạm Thị M, sinh năm 1991. Các con hiện đã thành niên và có khả năng lao động, sinh sống được nên bà không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn ông Phạm Văn D: Tòa án đã triệu tập hợp lệ để thu thập chứng cứ, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông D không đến Tòa án để tham gia tố tụng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi vào nghị án được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn ông Dũng chưa thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 91 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 56, 131 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; điểm a khoản 3 của Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09-6-2000 của Quốc hội hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Thông tư liên tịch số 01/2001TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BPT ngày 03-01-2001; Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà S đối với ông D. Về con chung: ông bà có 04 người con chung gồm Phan Thị S, sinh năm 1983, Phạm Thị T, sinh năm 1985, Phạm Vũ Y, sinh năm 1988 và Phạm Thị M, sinh năm 1991 hiện đã thành niên và có khả năng lao động, sinh sống được nên không đặt ra giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà S vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên vụ án vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Bà S và ông D chung sống với nhau vào năm 1981 nhưng không có đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, do ông bà chung sống với nhau trước ngày 03-01-1987 nên hôn nhân giữa ông bà là hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay bà S có yêu cầu ly hôn Tòa án thụ lý và giải quyết theo thủ tục chung.

Xét yêu cầu ly hôn của bà S thì thấy: Mâu thuẫn của ông bà chủ yếu phát sinh từ việc ông D thường xuyên uống rượu về đuổi đánh bà gây thương tích và bất tỉnh, hâm dọa đốt nhà, kinh tế gia đình khó khăn nhưng ông Dg không phụ giúp gia đình mà lại có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Ông bà sống ly thân vào khoảng năm 2001 cho đến nay, không ai có thiện chí hàn gắn gia đình. Xét thấy, hôn nhân giữa ông bà đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà S đối với ông D là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: 04 con chung của ông bà gồm: Phan Thị S, sinh năm 1983, Phạm Thị T, sinh năm 1985, Phạm Vũ Y, sinh năm 1988 và Phạm Thị M, sinh năm 1991, đều đã thành niên và tự lao động sinh sống được. Không có yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không có yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Bà S phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm hôn nhân, theo quy định tại khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị S đối với ông Phạm Văn D. Bà S được ly hôn với ông D.

2. Về con chung: 04 con chung của ông bà gồm: Phan Thị S, sinh năm 1983, Phạm Thị T, sinh năm 1985, Phạm Vũ Y, sinh năm 1988 và Phạm Thị M, sinh năm 1991, đều đã thành niên và tự lao động sinh sống được. Không có yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không giải quyết.

4. Về án phí: Bà S chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0013003 ngày 01-6-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu. Bà S đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;