Bản án về tranh chấp ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Hoàng M - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng M,  Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý  số 261/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 04 năm 2021 về "tranh chấp ly hôn", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2021/QĐXX - ST ngày 10 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 123/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh N.H.S, sinh năm 1977  Nơi cư trú: Tổ 57, phường Tương M, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội. Căn cước công dân số: 014077000030 cấp ngày 08/12/2017 tại Cục Cảnh sát ĐKQL cư trú và DLQG về dân cư. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị P.T.T.H, sinh năm 1983  Nơi cư trú: Tổ 57, phường Tương M, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội. Căn cước công dân số: 008183000313 cấp ngày 19/10/2017 tại Cục Cảnh sát ĐKQL cư trú và DLQG về dân cư. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án nguyên đơn anh N.H.S trình  bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị P.T.T.H kết hôn ngày 03/12/2008,  đăng ký tại UBND phường Chiềng Lề, thành phố S La. Việc kết hôn của anh chị là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc. Đến tháng 11 năm 2018 thì vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau về tính cách. Đặc biệt chị H ham chơi cờ bạc, dẫn đến nợ xã hội đen. Anh và gia đình đã nhiều lần phải nợ thay chị H. Có lẫn xã hội đen còn đe dọa và vứt chất bẩn vào nhà để ép trả tiền thay chị H. Đến nay, anh và chị H đã sống ly thân nhiều năm.

Bây giờ, anh S xác định tình cảm vợ chồng với chị H không còn, cuộc sống chung vợ chồng không có hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn, nên anh cương quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn chị H.

- Về con chung: Anh và chị P.T.T.H có 02 con chung, tên là Nguyễn  Hoàng  Bách,  sinh  ngày  21/05/2009  và  Nguyễn  Hoàng  Phong  sinh  ngày  16/06/2015. Từ khi anh chị sống ly thân thì các con chung ở với anh, mình anh chăm sóc, giáo dục. Khi ly hôn anh S yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung; việc cấp dưỡng, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nhà đất ở chung và khoản nợ chung: Anh khẳng định  anh và chị H không có, anh không yêu cầu Tòa án xem xét.

Bị đơn chị P.T.T.H: Từ khi Tòa án thụ lý vụ án, đã gửi Thông báo thụ lý vụ án và rất nhiều lần báo chị H đến Tòa án để giải quyết theo quy định của   pháp luật nhưng chị H không đến. Do đó, Tòa án không ghi được ý kiến của  chị H.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn: Anh N.H.S tiếp tục khẳng định tình cảm vợ chồng không còn, anh sống với chị P.T.T.H không có hạnh phúc. Đến nay hai vợ chồng đã sống ly thân nhiều năm. Anh cương quyết yêu cầu được ly hôn chị H. Khi ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung; việc cấp dưỡng nuôi con, anh không yêu cầu chị H đóng góp, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản chung, nhà đất ở chung và khoản nợ chung: Anh S tiếp tục khẳng định anh và chị H không có, anh không yêu cầu xem xét.

Bị đơn: Vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng M, Thành phố Hà Nội  phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng: Tòa án nhân dân quận Hoàng M, thành phố Hà Nội thụ lý Đơn ly hôn của anh N.H.S đối với chị P.T.T.H là đúng thẩm quyền, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Sau khi thụ lý, Tòa án đã tiến hành đúng trình tự tố tụng quy  định tại các Điều 195, 196 và 197 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chấp hành đún g quy  định, còn bị đơn không chấp hành đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân  sự. Cụ thể, chị H không đến theo giấy báo của Tòa án, không trình bày quan điểm, dẫn đến Tòa án phải làm thủ tục niêm yết nhiều lần các văn bản tố tụng. Đó là sự khó khăn của Tòa án, dẫn đến thời hạn giải quyết vụ án bị kéo  dài. Tại  phiên  tòa ngày  31/12/2021, bị  đơn  vắng  mặt  lần  thứ nhất không có lý do, Hội đồng xét xử đã ra quyết định hoãn phiên tòa. Phiên tòa   hôm nay, bị đơn tiếp tục vắng mặt, nên Tòa án căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tiếp tục xét xử là đúng quy định.

Kiểm sát viên đề nghị về việc giải quyết vụ án: Sau khi tóm tắt nội dung vụ án, yêu cầu của đương sự, phân tích căn cứ pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát xác định mâu thuẫn vợ chồng anh chị là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, xử cho anh S được ly hôn chị H; giao 02 con chung cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng, anh S không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng đối với chị H cho đến khi có yêu cầu; về chia tài sản chung, khoản nợ chung: đương sự không yêu cầu, nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại  phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh N.H.S có Đơn yêu cầu giải quyết ly hôn đối với chị P.T.T.H cư trú tại tổ 57, phường Tương M, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hoàng M theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản  1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Bị đơn chị H đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng không có ý kiến và cũng không đến Tòa án để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Do vậy, Tòa án đã phải niêm yết nhiều văn bản tố tụng. Để đảm bảo thời hạn xét xử và quyền lợi chính đáng của đương sự, Tòa án cần mở phiên tòa xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Anh N.H.S và chị P.T.T.H kết hôn tự nguyện. Ngày  03/12/2008, anh chị đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Chiềng Lề, thành phố S La, tỉnh S La. Hội đồng xét xử xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc. Đến tháng 11 năm 2018, anh   chị phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh chị không hợp nhau về tính cách, bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, khi chị H mải chơi cờ bạc, nợi nần nhiều người dẫn đến họ đến nhà đòi tiền, vứt chất bẩn vào nhà ép trả tiền.

Chị H đã nhiều lần được Tòa án gửi giấy báo đến Tòa án để giải quyết vụ  án nhưng không đến.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân  của anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh S yêu cầu được ly hôn đối với chị H, cần căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cần chấp nhận cho anh S được ly hôn chị H.

Về con chung: Qua nghiên cứu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời  khai của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xác định chị H và anh S có  02 con chung, tên là Nguyễn Hoàng Bách, sinh ngày 21/05/2009 và Nguyễn Hoàng Phong sinh ngày 16/06/2015. Khi ly hôn anh S yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung; việc cấp dưỡng, do anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét.

Xét, anh S làm đầu bếp thu nhập bình quân trên 20 triệu đồng mỗi tháng; có chỗ ở ổn định. Mặt khác, từ khi anh chị sống ly thân, các con chung ở với anh S, do anh S chăm sóc, giáo dục. Vì vậy, khi anh chị ly hôn cần giao các con chung cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật, đảm bảo điều kiện tốt nhất để con chung phát triển cả về thể chất cũng như tinh thần. Về cấp dưỡng nuôi con chung, do anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với chị H cho đến khi có yêu cầu.

Về tài sản chung, nhà đất chung và nợ chung: Anh S trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQUH14, ngày 30/12/2016 của   Ủy ban Thường vụ Quốc hội, anh N.H.S phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, chị  P.T.T.H không phải chịu.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo  quy định tại Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều  147; khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQUH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp , quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh N.H.S. Anh N.H.S được ly hôn chị P.T.T.H.

2. Về con chung: Xác nhận anh N.H.S và chị P.T.T.H có 02 con chung, tên là Nguyễn Hoàng Bách, sinh ngày 21/05/2009 và Nguyễn Hoàng Phong sinh ngày 16/06/2015. Giao 02 con chung cho anh N.H.S trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ ngày Bản án của Tòa án có hiệu lực pháp đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có thay đổi khác. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị P.T.T.H cho đến khi có yêu cầu.

Chị P.T.T.H có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở và có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con.

3. Về tải sản chung, nhà đất ở chung và khoản nợ chung: Đương sự  không có yêu cầu. Tòa không xét.

4. Về án phí: Anh N.H.S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: AA/2020/0049025 ngày 05 tháng 04 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàng M, thành phố Hà Nội. Anh N.H.S đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh N.H.S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; chị P.T.T.H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm  yết./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;