Bản án về tranh chấp ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 383/2020/TLST-HNGĐ, ngày 02/12/2020 về việc “Tranh chấp về ly hôn và yêu cầu nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 07 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Thị N – sinh năm 1980 (có mặt);

Địa chỉ: ấp XB, xã TQ, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Ông Danh S – sinh năm 1968 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp XB, xã TQ, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai đề ngày 26/10/2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Thị N trình bày:

Vào năm 2011, bà kết hôn cùng với ông Danh S, hôn nhân do mai mối, gia đình hai bên có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang theo quy định của pháp luật.

Sau khi cưới, vợ chồng bà chung sống với nhau hạnh phúc được khoảng 3 tháng thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bà phát hiện ông Sơn có người phụ nữ khác ở bên ngoài nên bà bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống và ông bà tự ly thân với nhau từ đó cho đến nay khoảng 9 năm nay. Từ khi ly thân đến nay, bà và ông S không có liên lạc với nhau, cũng không có gặp mặt và không hòa giải được với nhau. Nay, bà nhận thấy vợ chồng không thể nào hàn gắn với nhau được nữa nên yêu cầu được ly hôn.

Quá trình chung sống, vợ chồng chị có 01 con chung tên: Danh Tuấn K – sinh ngày 28/10/2011. Hiện nay, cháu K đang sống cùng với bà.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà N xác định vợ chồng không có tài sản chung và cam kết vợ chồng cũng không có thiếu nợ ai.

Tại phiên tòa: Về quan hệ hôn nhân, bà Thị N yêu cầu được ly hôn với ông Danh S; Về con chung, bà N yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là Danh Tuấn K, không yêu cầu cấp dưỡng; Về tài sản chung, bà xác định vợ chồng không có tài sản chung và cam kết vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Danh S không có mặt tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật cho ông S nhưng ông không có mặt cũng không cung cấp bản tự khai cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến hay bất cứ yêu cầu nào của ông.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định nhưng đều vắng mặt là không tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 56, Điều 81, 82, 83 và 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Chấp nhận cho bà Thị N được ly hôn với ông Danh S; Về con chung: Giao con chung tên Danh Tuấn K – sinh ngày 28/10/2011 cho bà Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; ghi nhận việc bà N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu nên miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình chung sống, do phát sinh mâu thuẫn không giải quyết được với nhau nên bà Thị N khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Danh S được Tòa án thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền được quy định tại Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (Bộ luật BLTTDS 2015).

Ông Danh S với tư cách là bị đơn trong vụ án, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn như: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ và hòa giải; Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ và hòa giải Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, anh S không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, không nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, không đến Tòa án để tham gia phiên họp, hòa giải là không thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn giao nộp và do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật tố tụng dân sự. Mặc khác, ông Danh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 BLTTDS, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông S.

[2] Về hôn nhân: bà Thị N và ông Danh S xác lập quan hệ hôn nhân với nhau vào năm 2011, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang theo Giấy chứng nhận kết hôn số 13/2011 quyển số 1/2011 ngày 23/02/2011, theo quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét yêu cầu của bà Thị N được ly hôn với ông Danh S vì lý do ông Danh S có người phụ nữ khác ở bên ngoài dẫn đến vợ chồng đã tự ly thân với nhau khoảng 9 năm nay. Đối với ông Danh S, Tòa án đã nhiều lần tống đạt và thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng trong đó có 02 lần tống đạt Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để điều kiện cho vợ chồng anh chị hòa giải, đoàn tụ với nhau nhưng ông Danh S đều không có mặt nên Tòa án không tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được.

Tại phiên tòa, bà N khai rõ trong suốt thời gian ly thân, vợ chồng ông bà không gặp mặt nhau và không còn liên lạc với nhau nữa, bản thân bà thì không còn tình cảm gì với ông S và tỏ rõ thái độ cương quyết ly hôn với ông S. HĐXX thấy rằng, trước khi cưới nhau ông bà không có tìm hiểu kỹ nên khi về sống chung một thời gian thì bộc lộ cá tính của mỗi người nên khi xảy ra mâu thuẫn không giải quyết được dẫn đến tranh chấp kéo dài làm cho tình trạng hôn nhân trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà N là phù hợp.

[3] Về con chung: Bà Thị N xác định vợ chồng có 01 con chung tên Danh Tuấn K – sinh ngày 28/10/2011. Hiện nay, cháu K đang sống cùng với bà N, bà N yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu K và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

HĐXX thấy rằng, từ khi ly thân đến nay, cháu K sống cùng với bà N và phát triển bình thường như những đứa trẻ khác nên việc bà N yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu K là phù hợp với thực tế, phù hợp với nguyện vọng của cháu K và phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ghi nhận việc bà N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Thị N xác định vợ chồng không có tài sản chung và cam kết vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Án phí ly hôn là 300.000đ bà N phải nộp do có yêu cầu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Thị N được ly hôn với ông Danh S.

2. Về con chung: Giao con chung tên Danh Tuấn K – sinh ngày 28/10/2011 cho bà Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận việc bà N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Ông Danh S không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhưng có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở chị N thực hiện quyền này.

Khi cần thiết ông, bà có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà Thị N phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đ nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0009590, ngày 02/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, bà Thị N đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 25/02/2022.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 9 Luật thi hành án dân sự và các Điều 7, 7a, 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;