Bản án về tranh chấp ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 11 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 282/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2021 về việc: “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 99/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1976, (có đơn xin vắng mặt); HKTT: Ấp 5B, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Địa chỉ hiện nay: Số 37A, khu phố 6, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1979, (vắng mặt); Địa chỉ: Ấp 5B, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 15/11/2021, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu T trình bày:

Chị và anh Phạm Văn H xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C. Sau kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc nguyên nhân là do anh H nhiều lần nhận trộm cháu L tắm (L là con riêng của chị với người chồng trước) và nhiều lần anh H đánh đập cháu L nên chị và anh H phát sinh mâu thuẫn, cải vả nhau. Mặc dù chị yêu cầu anh H không được dùng những hành vi trên đối với cháu L nhưng anh H vẫn tiếp tục. Vì lo sợ sự an toàn của con gái nên chị dẫn các con về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 4/2021 đến nay và kể từ đó anh chị sống ly thân. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, chị không thể tiếp tục sống chung với anh H được nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn H.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Minh L , sinh ngày 29/11/2011. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc không thể tham gia phiên tòa nên chị T có đơn yêu cầu xin được vắng mặt trong quá trình xét xử.

* Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn, đơn khởi kiện, bản tự khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ , quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh H vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ lời trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị T có đơn yêu cầu ly hôn với anh H, bị đơn anh H cư trú tại ấp 5B, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Do đó, quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là “Tranh chấp ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa, anh H vắng mặt lần thứ 2 mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; đồng thời chị T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên căn c vào điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận, bởi lẽ:

3.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã P, huyện Cai Lậy cấp giấy ch ng nhận kết hôn số 49 vào ngày 26/4/2012, được xem là hôn nhân hợp pháp.

Căn c vào lời khai của chị T thì sau khi kết hôn, chị và anh H chung sống không hạnh phúc, thường xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do anh H có những hành vi không tốt với cháu L là con riêng của chị. Vì sự an toàn của cháu L nên chị dẫn các con về nhà mẹ ruột chị sống từ tháng 4/2021 đến nay. Cũng kể từ thời gian này thì anh chị sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa chứng tỏ giữa chị T và anh H đã không còn tình cảm vợ chồng, việc kéo dài hôn nhân sẽ không mang lại hạnh phúc cho cả hai.

Theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau.....”. Do đó, chị T và anh H thường xuyên cự cải nhau, anh chị sống ly thân nhau trong thời gian dài mà vẫn không hàn gắn được tình cảm chứng tỏ hôn nhân giữa chị T và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.

Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho anh H, mở phiên hòa giải để hàn gắn mâu thuẫn cho các bên nhưng anh H vắng mặt không lý do và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình về việc ly hôn, từ đó cho thấy anh H không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T. Do đó, chị T yêu cầu xin ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3.2. Về con chung: Quá trình chung sống chị T và anh H có 01 con chung tên Phạm Minh L, sinh ngày 29/11/2011. Xét thấy, cháu L hiện đang sống với chị T, cuộc sống sinh hoạt đã ổn định. Tại bản tự khai ngày 29/11/2021, cháu L có nguyện vọng sống với chị T khi chị T và anh H ly hôn. Đồng thời tại văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân và điều kiện nuôi con, chính quyền địa phương khu phố 6, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An xác nhận chị T có đủ điều kiện để nuôi con. Anh H không có ý kiến phản đối về yêu cầu nuôi con chung của chị T. Vì vậy, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu L là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

3.3. Về cấp dưỡng: Chị T chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3.4. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị T pH chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về m c thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Thu T được ly hôn với anh Phạm Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung tên Phạm Minh L, sinh ngày 29/11/2011 cho chị Nguyễn Thị Thu T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh Phạm Văn H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được quyền ngăn cản.

3. Về cấp dưỡng: Anh H chưa phải cấp dưỡng nuôi con do chị T chưa có yêu cầu.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

5. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001298 ngày 28/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang nên chị T đã nộp xong án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;