Bản án về tranh chấp ly hôn số 04/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2022/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 3 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXX-ST ngày 15 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05/7/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Lý Thị M, sinh năm 1992.

Địa chỉ: thôn Q, Xã H, Huyên V, Tỉnh Hưng Yên, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: anh Đỗ Văn V, sinh năm 1993.

Địa chỉ: khu C, thị trấn Q, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 09/3/2022 và quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Lý Thị M trình bày: chị và anh Đỗ Văn V đăng ký kết hôn ngày 17/3/2014 tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Chị và anh Đỗ Văn V sinh sống đến tháng 01 năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh V thường xuyên chơi bời, không quan tâm đến vợ con, dẫn đến việc chị và anh Đỗ Văn V thường xuyên xảy ra cãi vã. Chị và anh Đỗ Văn V đã nhiều lần tự hòa giải nhưng không đạt kết quả, nên đã ly thân từ tháng 02 năm 2017 đến nay. Những mâu thuẫn trên đã thật sự sâu sắc, cuộc sống vợ chồng không thể tiếp tục kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đỗ Văn V.

Về con chung: chị và anh Đỗ Văn V có có 01 con chung là cháu Đỗ Nhị Minh T, sinh ngày 02/8/2014. Hiện nay cháu T đang sinh sống cùng chị tại thôn Q, xã H, huyện V, tỉnh Hưng Yên và học tập tại Trường tiểu học xã H. Do đó, để đảm bảo cuộc sống của cháu T không bị ảnh hưởng, thay đổi, chị đề nghị Tòa án giao cháu T cho chị tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu trưởng thành. Chị không yêu cầu anh Đỗ Văn V phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền qua lại thăm nom con chung không ai được phép cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: chị và anh Đỗ Văn V không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí Tòa án: chị Lý Thị M xin chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho anh Đỗ Văn V. Nhưng anh Đỗ Văn V vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do chính đáng.

Ngày 05/05/2022, Tòa án nhân dân huyện H đã tiến hành xác minh tại nơi cư trú của anh Đỗ Văn V. Qua xác minh, đại diện chính quyền điạ phương cho biết: sau khi kết hôn, chị Lý Thị M và anh Đỗ Văn V sinh sống và đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn 2 xã Quảng Trung (nay là khu C), thị trấn Q, huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống tại địa phương anh Đỗ Văn V và chị Lý Thị M thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Đến tháng 02 năm 2017, thì chị Lý Thị M và con gái là cháu Đỗ Nhị Minh T đã đi nơi khác sinh sống, hiện nay không còn chung sống cùng anh Đỗ Văn V tại khu C, thị trấn Q, huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Về con chung: trong quá trình chung sống, chị Lý Thị M và anh Đỗ Văn V có một con chung là cháu Đỗ Nhị Minh T, sinh ngày: 02/8/2014; Hiện nay cháu Đỗ Nhị Minh T đang sinh sống cùng mẹ là chị Lý Thị M ở đâu chính quyền địa phương không được biết. Anh Đỗ Văn V hiện đang sống cùng bố mẹ tại khu C, thị trấn Q, huyện H, tỉnh Quảng Ninh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: - Về tố tụng: quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành tố tụng theo đúng các trình tự thủ tục mà Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án mà không có lý do chính đáng. Về nội dung, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn chị Lý Thị M: Về tình cảm: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M đối với anh V. Về con chung: hiện cháu Đỗ Nhị Minh T đang sinh sống cùng chị M, do đó đề nghị Tòa án giao cháu T cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục. Về tài sản chung và nợ chung: chị Lý Thị M và anh Đỗ Văn V không có tài sản chung và nợ chung, chị M không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết. Bị đơn anh V vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và không có yêu cầu gì, nên không xét. Nguyên đơn chị Lý Thị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: chị Lý Thị M và anh Đỗ Văn V đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn 2 xã Quảng Trung (nay là khu C, thị trấn Q), huyện H, tỉnh Quảng Ninh, nên căn cứ theo điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ninh.

[2] Về quá trình tiến hành tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn là anh Đỗ Văn V. Nhưng anh V vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do chính đáng. Việc Tòa án không tiến hành hòa giải được và xét xử vắng mặt anh V, chị M có đơn xin xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 207; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: chị Lý Thị M và anh Đỗ Văn V kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang ngày 17/3/2014. Hôn nhân của anh, chị là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn giữa chị M và anh V phát sinh do anh V thường xuyên chơi bời, không quan tâm đến gia đình, vợ con. Vợ, chồng sống mỗi người một nơi và ly thân từ tháng 02 năm 2017 đến nay. Việc anh V vắng mặt trong toàn bộ quá trình tố tụng tại Tòa án cho thấy anh V cũng không có ý thức xây dựng gia đình, không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị M và anh V là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M đối với anh V là phù hợp với thực trạng quan hệ hôn nhân của anh, chị; phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: chị Lý Thị M và anh Đỗ Văn V có 01 con chung là cháu Đỗ Nhị Minh T, sinh ngày 02/8/2014. Quá trình giải quyết vụ án, chị M đề nghị Tòa án giao cháu T cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục kể từ tháng 7 năm 2022 đến khi cháu trưởng thành (đủ 18 tuổi), chị không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền qua lại thăm nom con chung không ai được phép cản trở.

Hội đồng xét xử thấy rằng: quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã xác minh tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của anh V, chị M và nơi cháu T đang học tập thấy rằng, thực tế cháu Đỗ Nhị Minh T đang ở cùng mẹ là chị Lý Thị M kể từ tháng 02/2017 đến nay. Khi Tòa án tiến hành lấy lời khai, ghi nhận ý kiến của cháu T thấy rằng cháu T hiện đang học tại Trường tiểu học xã H, huyện V, tỉnh Hưng Yên và có nguyện vọng muốn ở cùng mẹ là chị Lý Thị M.

Mặt khác, hiện chị M đang làm công nhân, có việc làm và thu nhập ổn định, có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Để đảm bảo không xáo trộn cuộc sống cũng như tâm lý của trẻ em, cần giao cháu T cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lý Thị M về vấn đề con chung, giao cháu cháu Đỗ Nhị Minh T cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 7 năm 2022 đến khi cháu T trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh Đỗ Văn V không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền qua lại thăm nom con chung không ai được phép cản trở.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: chị Lý Thị M và anh Đỗ Văn V không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh V vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và không có yêu cầu gì, nên Tòa án không xem xét.

[6] Về án phí: Theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Nguyên đơn chị Lý Thị M phải chịu án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chị Lý Thị M được ly hôn với anh Đỗ Văn V.

2. Về con chung: giao cháu Đỗ Nhị Minh T, sinh ngày 02/8/2014 cho chị Lý Thị M trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục kể từ tháng 07/2022 đến khi cháu T trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh Đỗ Văn V không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền qua lại thăm nom con chung không ai được phép cản trở.

3. Về án phí: chị Lý Thị M phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: AA/2021/0013565 ngày 11 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Chị Lý Thị M đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi thường trú. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 04/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;