Bản án về tranh chấp ly hôn số 04/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI 

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch công khai xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 449/2020/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1044/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 1177/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Thùy T, sinh năm 1989.

Địa chỉ thường trú: Tổ 2, ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ tạm trú: Khóm 2, thị trấn C, huyện M, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Đoan D, sinh năm 1984 Địa chỉ: Tổ 2, ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai). (Bà T yêu cầu xét xử vắng mặt, ông D vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/6/2020, bản tự khai ngày 22/6/2020 và các lời khai tiếp theo trong quá trình tụng, nguyên đơn bà Huỳnh Thị Thùy T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông D tự nguyện xây dựng gia đình với nhau vào tháng 4/2014, có tổ chức lễ cưới đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn C, huyện M vào ngày 11/5/2015. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống với cha mẹ ông D tại ấp B, xã P, huyện Nhơn Trạch. Vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, Bà trở về quê và sống ly thân ông D cho đến nay. Nguyên nhân chính là do ông D không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình và sử dụng ma túy dẫn đến vợ chồng gây gỗ thường xuyên. Mâu thuẫn vợ chồng, cha mẹ hai bên đều biết và hòa giải nhiều lần nhưng ông D không thay đổi được. Từ khi vợ chồng sống ly thân, vợ chồng không gặp nhau để bàn bạc, đoàn tụ gì. Nay Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và kiên quyết ly hôn ông D. Nếu Tòa án không chấp nhận thì Bà cũng không trở về chung sống với ông D.

Về con chung: Có 02 cháu tên Nguyễn Trọng N, sinh ngày 23/01/2018 và cháu Nguyễn Huỳnh L, sinh ngày 23/11/2015. Cháu L do Bà nuôi dưỡng từ tháng 8/2020, còn cháu N thì Bà nuôi từ khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn.

Nếu ly hôn Bà yêu cầu được tiếp tục nuôi các con, không yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Ngày 18/8/2020, bà T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn ông D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng Ông vắng mặt không có lý do nên không có lời khai của ông D.

Ý kiến của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch về việc giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng và thu thập chứng cứ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự thủ tục và đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật và đề nghị xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn ông D.

Về nội dung: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện và xử cho bà T được ly hôn ông D.

Về con chung: Giao cháu Huỳnh L, Trọng N cho bà T được tiếp tục nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà T khai không có và ông D thì vắng mặt, không có lời khai nên không xem xét.

Về kiến nghị, khắc phục: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ngày 22/6/2020, bà T có đơn yêu cầu ly hôn đối ông Nguyễn Đoan D. Theo xác nhận của Ban Công an xã P thì ông D có đăng ký thường trú và đang sinh sống tại ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch được quy định tại Điều 28, 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho ông D nhưng Ông vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do; Ngày 18/8/2020, bà T có đơn đề nghị giải quyết vụ án vắng mặt. Vì vậy, căn cứ khoản 1, 3 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn.

[3] Về áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết: Quan hệ hôn nhân và gia đình của bà T, ông D được xác lập sau ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu luật (ngày 01/01/2015) nên áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để giải quyết theo quy định tại Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông D xây dựng gia đình vào tháng 4 năm 2014, có tổ chức lễ cưới đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn C, huyện M vào ngày 11/5/2015, do cả hai cùng tự nguyện nên được xem là hôn nhân hợp pháp.

Bà T yêu cầu ly hôn, ông D vắng mặt nên không thể tiến hành hòa giải được. Xét, mâu thuẫn vợ chồng theo lời khai của bà T thì phát sinh trầm trọng từ đầu năm 2019, nguyên nhân chính là do ông D không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình và sử dụng ma túy dẫn đến vợ chồng gây gỗ thường xuyên, được cha mẹ hai bên khuyên giả nhiều lần nhưng ông D không sửa đổi nên làm cho cuộc sống hôn nhân ngày càng lâm vào cảnh bế tắc. Theo biên bản xác minh tại UBND xã P thì việc ông Duy sử dụng trái phép chất ma túy là đúng nhưng chưa bị xử lý hành chính lần nào. Kể từ đầu năm 2019, bà T trở về nhà cha, mẹ và sống ly thân với ông D cho đến nay, vợ chồng không gặp nhau để hòa giải đoàn tụ gì và không còn quan tâm đến nhau. Như vậy, có cơ sở khẳng định tình cảm giữa vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, không thể tồn tại hôn nhân mà không có hạnh phúc nên xử cho bà T được ly hôn ông D là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[5] Về con chung: Có 02 cháu tên Nguyễn Trọng N, sinh ngày 23/01/2018 và cháu Nguyễn Huỳnh L, sinh ngày 23/11/2015, đang do bà T nuôi dưỡng. Bà T yêu cầu được tiếp tục các nuôi con, không yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con. Do ông D vắng mặt nên không biết được yêu cầu của Ông như thế nào để xem xét.

Xét,việc giao con cho ai được nuôi dưỡng cần xem xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế thực tế, chỗ ở của các bên, điều kiện để phát triển về mọi mặt của con từ thể chất đến tinh thần, việc học hành và nguyện vọng của con. Theo lời khai của bà T thì Bà có việc làm và thu nhập ổn định và từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, Bà nuôi con luôn được đảm bảo tốt; bản thân ông D có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nếu giao con cho Ông được nuôi dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các con sau này; hơn nữa con vừa qua ba tuổi, giao cho mẹ nuôi dưỡng là phù hợp với tâm lý của con. Vì vậy, xử giao cháu Trọng N và Huỳnh L cho bà T được tiếp tục nuôi dưỡng, là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con nên không xét.

[7] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T khai không có và ông D thì vắng mặt, không có lời khai nên không xem xét.

[8] Về án phí: Bà T chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân gia đình.

[9] Về quan điểm, ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 147, 266, 273 và khoản 1, 3 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và Lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Huỳnh Thị Thùy T đối với ông Nguyễn Đoan D.

Xử cho bà T được ly hôn với ông D.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Trọng N, sinh ngày 23/01/2018 và cháu Nguyễn Huỳnh L, sinh ngày 23/11/2015 cho bà T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng.

Tạm thời ông D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, bà T, ông D vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Ông D có quyền đến thăm con không ai được ngăn cản. Khi cần thiết các đương sự được quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

2. Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân gia đình nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0000618 ngày 22/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch.

3. Bà T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản sao bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 04/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;